Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tiểu Bộ Kinh – Tập II


Khuddaka Nikàya

Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt

2.2 Chuyện Ngạ Quỷ

Phẩm IV.b

-ooOoo-

Ðại Phẩm (tiếp theo)

  1. (40) Chuyện Cây Mía (Ucchu)

Trong khi đức Thế Tôn đang trú tại Veluvana (Trúc Lâm), một người đang chở mía, cầm một khúc mía, vừa đi vừa ăn. Các vần kệ này kể lại câu chuyện trên.

Một hôm, Tôn giả Mahà-Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) đang đi khất thực vào Vương Xá, gặp một ngạ quỷ thưa trình như sau:

  1. Một rừng mía lớn hiện bên mình,
    Bát ngát, mùa phong phú tốt lành,
    Song nó không cho tôi chút ít,
    Kính thưa Tôn giả đại uy danh,
    Nghiệp gì gây quả này như vậy,
    Tôn giả cho tôi biết sự tình?
    2. Tôi đang thống khổ, bị hành thân,
    Tôi cố gắng tìm chút để ăn,
    Tôi phấn đấu hoài bên khóm mía,
    Sắp tàn hơi thở, chết kề gần,
    Tôi than khóc tấm thân đày đọa,
    Do nghiệp gì đem quả ấy chăng?

    3. Thất bại, tôi nhào xuống đất ngay,
    Lăn tròn trong lửa đốt thiêu này
    Như con cá nọ, tôi than khóc,
    Nước mắt nhỏ ra cả mặt mày,
    Tôn giả, xin ngài cho biết rõ,
    Nghiệp gì đem kết quả như vầy?

    4. Tôi đói khát và kiệt sức tàn,
    Kinh hoàng, tôi chẳng biết bi hoan,
    Chúc ngài hưởng phước, tôi xin hỏi,
    Làm thế nào tôi được mía ăn?

Tôn giả Moggallàna:

  1. Khi làm người ở một thời xưa,
    Ngươi đã tạo nên một nghiệp tà,
    Ta nói cho ngươi nghe việc ấy,
    Khi nghe, ngươi biết chuyện vừa qua.
    6. Ngươi bước trên đường, lấy mía ăn,
    Một Tỳ-kheo đến tự sau lưng,
    Bảo ngươi rằng muốn xin đôi chút,
    Ngươi chẳng đáp lời, chẳng hé răng.

    7. Cho dẫu ngươi không muốn nói năng,
    Người kia vẫn nói, giọng xin van:
    ‘Cho tôi khúc mía, thưa ông chủ’,
    Sau đó ngươi cho một ít phần
    Từ phía sau lưng và kết quả
    Nghiệp kia ngươi đã lãnh vào thân.

    8. Nhìn đây! Cầm mía ở sau mình,
    Hãy lấy mía ăn thật thỏa tình,
    Do chính việc này, ngươi sẽ được
    Hân hoan, thích thú, hưởng ân lành!

    9. Nó đi cầm mía tự sau mình,
    Khi đã cầm, ăn thật thỏa tình,
    Do chính cách này, nên nó được
    Hân hoan, thích thú, hưởng ân lành.

Ngạ quỷ ấy bèn cầm một bó mía cúng dường vị Trưởng lão và vị này đem dâng đức Phật ở Trúc Lâm. Ðức Thế Tôn cùng hội chúng Tỷ-kheo dùng mía ấy rồi nói lời tùy hỷ công đức.

Từ đó về sau ngạ quỷ ấy có thể ăn mía thỏa thích.

Theo thời gian, ngạ quỷ được tái sanh giữa hội chúng cõi trời Ba mươi ba.

 

  1. (41) Chuyện Các Vương Tử (Kumara)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jevatana (Kỳ Viên)

Tương truyền Ðại Vương nước Kosala (Kiều-tát-la) trị vì tại Sàvatthi (Xá-vệ) có hai vương tử khả ái đang độ hoa niên. Trong nỗi đam mê dục vọng của tuổi trẻ không được kềm chế, hai vị đã phạm tội tà dâm nên sau khi từ trần hai vị tái sanh làm ngạ quỷ bị đè bẹp trong một ống cống.

Suốt đêm, ngạ quỷ thường than khóc với những tiếng kêu la khủng khiếp. Dân chúng nghe vậy rất kinh hãi.

Do sự việc này, dân chúng cúng dường đại lễ lên Giáo hội do đức Phật cầm đầu và bảo nhau:

– Ðiềm xấu này phải chấm dứt.

Sau đó họ trình lên đức Thế Tôn những việc đang xảy ra. Ngài bảo:

– Này chư đệ tử, chư vị không thể chấm dứt tiếng kêu la này được đâu.

Rồi Ngài nói rõ nguyên nhân sự việc này cho hội chúng qua các vần kệ sau:

  1. Có một kinh thành tên Xá-vệ,
    Ở trên sườn núi Tuyết, cao sơn,
    Tôi nghe vầy: Có đôi vương tử
    Là các con trai bậc đế vương.
    2. Phóng dật buông lung các dục tham,
    Tìm nguồn lạc thú ở trần gian,
    Chúng không suy xét tương lai chúng,
    Tận hưởng thú vui hiện tại tràn.

    3. Khi chúng bỏ thân xác thế nhân
    Ði sang thế giới khác người trần,
    Dù không ai thấy, thường kêu khóc
    Về ác nghiệp xưa chúng đã làm

    4. ‘Quả thật nhiều người đáng cúng dâng
    Với nhiều lễ vật’, chúng than van,
    ‘Xưa ta chẳng tạo nên công đức
    Ðem đến cho mình chỗ trú an’.

    5. ‘Ác nghiệp nào đời trước tạo ra,
    Do vầy từ giã chốn hoàng gia,
    Tái sanh vào cõi loài ma đói,
    Chịu đói khát giày xéo chúng ta?

    6. Những kẻ làm vua cõi thế nhân
    Sẽ không làm chúa tể âm cung,
    Sang, hèn, hai loại đều quanh quẩn
    Bị đói khát hành hạ khổ thân.

    7. Biết rằng đau khổ có nguồn căn
    Vua chúa buông lung phóng dật tâm,
    Nam tử bỏ vương quyền ngã mạn,
    Do vầy, thành một vị Thiên nhân,
    Sau khi xả báo thân phàm tục,
    Bậc trí tái sanh cõi sáng bừng’.

Như vậy, bậc Ðạo Sư kể lại số phận của các ngạ quỷ xong, liền hồi hướng về chúng công đức do đám người này cúng dường lễ vật và thuyết pháp theo ý Ngài.

 

  1. (42) Chuyện Vị Vương Tử (Ràjaputta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Jevatana (Kỳ Viên).

Thuở xưa có một nam tử của vua mệnh danh là Kitava làm tổn thương một vị Ðộc Giác Phật. Chàng phải đọa vào địa ngục nhiều ngàn năm, và chính vì lỗi lầm kia, chàng bị tái sanh vào loài ngạ quỷ. Chuyện của chàng đã được kể đầy đủ chi tiết trong sự tích các ngạ quỷ ở Sànuvàsi (Số 27, phẩm III)

Bấy giờ trong khi kể cho một vị Trưởng lão nghe số phận đám quyến thuộc quá vãng của ngạ quỷ kia, bậc Ðạo Sư bảo:

– Quả thật không phải chỉ quyến thuộc của ông, mà cả ông nữa, lúc trở thành ngạ quỷ trong đời trước, sau khi từ giã thế giới này, cũng đã chịu nỗi thống khổ khốc liệt.

Rồi do lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, Ngài kể chuyện này:

  1. Quả do các nghiệp tạo ngày xưa
    Có thể làm dao động trí ta
    Liên hệ sắc, thanh, hương, vị, xúc,
    Những gì đem lạc thú say sưa.
    2. Ông hoàng đã hưởng thú cao sang,
    Ðàn địch, ái ân thật ngập tràn,
    Sau lúc nhàn du quanh thượng uyển,
    Chàng đi vào cổ lũy Ða Sơn.

    3. Chốn kia chàng thấy Su-net-ta,
    Thanh tịnh, điều thân, một Phật gia,
    Thiểu dục, khiêm cung và biết đủ
    Với bình khất thực kiếm từng nhà.

    4. Hoàng nam bước xuống tự lưng voi,
    Và đến Hiền nhân ấy, thốt lời:
    ‘Tôn giả, xin chào!’ rồi lập tức
    Chàng cầm bình bát ném lên trời.

    5. Ném vỡ chiếc bình xuống đất kia,
    Vừa cười vừa nói lúc đi xa:
    ‘Ta là vương tử Ki-ta chúa,
    Ðạo sĩ có làm ích lợi ta?’

    6. Quả báo cho hành động bất nhân
    Thật là khắc nghiệt, khổ muôn phần,
    Tương truyền vương tử về sau đó
    Phải đọa vào trong ngục tối tăm.

    7. Hơn năm mươi vạn năm đày thân
    Trong ngục tối đau khổ tận cùng
    Vì tội lỗi mà chàng đã tạo,
    Bị nhiều hình phạt đến xoay vần.

    8. Chàng cứ nằm, đưa mặt xuống sàn
    Xoay quanh phải, trái, biết bao lần,
    Ðôi chân chổng ngược lên cao mãi;
    Rồi đứng thẳng, người ngốc khổ thân.

    9-10. Qua mấy ngàn năm, mấy vạn năm,
    Bị hành địa ngục khổ vô ngần,
    Chính vì tội lỗi chàng gây tạo,
    Quả khắc nghiệt kia phải lãnh phần
    Bởi những người đưa tay phá hại
    Bậc Hiến trí giải thoát mê lầm.

    11. Sau khi đã trải biết bao năm
    Trong ngục khổ đau thật hãi hùng,
    Chàng phải mạng chung vì đói khát,
    Trở thành một ngạ quỷ mình trần.

    12. Như vầy, khi thấy cảnh đau thương
    Do vị vua buông thả kỷ cương,
    Ta chẳng làm vua buông thả nữa,
    Mà nên hướng đến tính khiêm nhường.

    13. Ngay cả trong đời sống hiện thời,
    Người tôn trọng Phật đáng khen hoài,
    Có đầy trí tuệ, khi thân hoại,
    Ðược tái sanh vào cõi sáng tươi

    .

 

  1. (43) Chuyện Những Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhàdaka)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên).

Tương truyền trong một thị trấn nọ không xa Sàvatthi, có một gia chủ ra lệnh xây một tinh xá cúng dường vị Tỷ-kheo vốn là bạn thân của mình. Về sau nhiều Tỷ-kheo từ khắp nơi đến cư trú tại đó.

Khi thấy chư Tăng, dân chúng liền cung cấp đủ mọi thứ cần dùng. Bấy giờ vị Tỷ-kheo thân tín của chủ nhà không chịu được cảnh này và lòng đầy ganh tỵ (như các vần kệ kể lại).

Về sau Tôn giả Mahà-Moggallàna thấy vị ấy và hỏi:

  1. Ngươi chính là ai, khốn khổ thân,
    Ðứng kia, vừa đến tự hầm phân,
    Nói cho ta biết hành vi ác
    Ngươi đã làm trong quá khứ chăng?

Ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, tôi là ngạ quỷ nhân,
    Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân,
    Vì tôi đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời, tôi đến cõi âm
    .

Trưởng lão:

  1. Thời xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi?
    Vì nghiệp quả nào ngươi đã tạo
    Giờ ngươi phải chịu cảnh sầu bi?

Ngạ quỷ:

  1. Nhà tôi thường trú một Tỳ-kheo,
    Tật đố và ganh tỵ đủ điều,
    Ở tại nhà tôi, ham dục lạc,
    Vị này phỉ báng, xan tham nhiều.
    5. Tôi đã nghe lời của ác nhân,
    Và tôi khiển trách các Sa-môn;
    Bởi vì tôi phạm hành vi ấy,
    Từ cõi đời, tôi đến cõi âm.

Trưởng lão:

  1. Bạn thiết của ngươi chính kẻ thù
    Giả danh bạn đấy, hỡi người ngu,
    Ðến khi thân hoại, đi nơi khác,
    Số phận nào cho kẻ giả tu?

Ngạ quỷ:

  1. Nay tôi đang đứng ở trên đầu
    Của phạm nhân này tự bấy lâu,
    Nó đã đọa vào miền ngạ quỷ,
    Chỉ mình tôi, nó phải theo hầu
    8. Vật nào người khác trút cho vơi
    Liền trở thành đồ ăn của tôi,
    Và nó, đến phiên mình, kiếm sống
    Những gì tôi tống khứ ra ngoài!

Tôn giả Mahà-Moggallàna tường thuật sự việc này lên đức Thế Tôn, Ngài liền giải thích ý nghĩa của nó và nêu rõ mối nguy hiểm của sự chỉ trích người khác.

 

  1. (44) Chuyện Thứ Hai Về Các Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhàdaka)

Trong lúc đang trú tại Jetavana, bậc Ðạo Sư kể chuyện này giống như chuyện trên. Ở đây, một nữ cư sĩ xây tinh xá và bị tái sanh làm nữ ngạ quỷ.

Các vần kệ đều giống nhau.

 

  1. (45) Chuyện Bầy Ngạ Quỷ (Ganapeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.

Tương truyền tại Sàvatthi, có một đám người không mộ đạo, không có lòng tin và có tật xan tham, keo kiệt. Họ thường thờ ơ đối với những ý tưởng họ đã chấp nhận cùng nhiều vấn đề khác trong cuộc đời.

Sau khi đã sống một thời gian dài, họ từ trần và tái sanh làm ngạ quỷ gần kinh thành. Rồi một hôm, Tôn giả Mahà-Moggallàna đi đến Sàvatthi để khất thực, Tôn giả thấy bầy ngạ quỷ trên đường, bèn hỏi chúng:

  1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
    Hốc hác, khắp thân thể nổi gân,
    Gầy guộc, các xương sườn lộ rõ,
    Vậy là ai đó, các tôn ông?

Bầy ngạ quỷ:

  1. Tôn giả, chúng con chính quỷ nhân,
    Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân,
    Chúng con đã phạm hành vi ác,
    Từ cõi đời, đi đến cõi âm.

Trưởng lão:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi?
    Vì nghiệp quả nào nên đã đọa
    Từ đây tới cảnh giới âm ty?

Bầy ngạ quỷ:

  1. Cả bọn đi quanh bến tắm công,
    Lang thang suốt cả nửa tuần trăng;
    Chúng con chẳng tạo nơi an trú
    Bằng cách đem tài vật cúng dâng.
    5. Chúng con kinh hãi đến dòng sông,
    Sông nước trở thành bãi trống không;
    Ngày nắng chúng con vào bóng mát,
    Tàn cây lại hóa nóng bừng bừng.

    6. Cơn gió như thiêu đốt, lửa hồng
    Thổi ào lên khắp cả toàn thân,
    Chúng con xứng đáng nhiều đau khổ
    Hơn thế này, Tôn giả biết chăng?

    7. Ðói khát mong cầu thức uống ăn,
    Chúng con đi cả mấy do-tuần,
    Trở về không được gì đâu cả,
    Cơ khổ! Chúng con ít phước phần.

    8. Ðói lả và bất tỉnh ngã lăn
    Chúng con gục xuống đất khô cằn,
    Tấm thân sóng sượt nằm co quắp,
    Ðầu ngã lộn nhào xuống dưới chân.

    9. Do vậy chúng con phải ngã liền
    Xuống nền đất lạnh khổ triền miên;
    Chúng con đấm ngực và đầu tóc,
    Cơ khổ! Chúng con ít phước duyên.

    10. Tôn giả, chúng con xứng lãnh phần
    Khổ đau này nữa thật nhiều lần.
    Chúng con chẳng tạo nơi an trú
    Cho chính mình bằng cách cúng dâng.

    11. Quả thật, khi từ biệt cõi này,
    Tái sanh nhân thế kiếp sau đây,
    Chúng con nguyện hết lòng hào phóng,
    Tu tập giới, hành thiện sự ngay

    .

Vị Trưởng lão trình đức Thế Tôn toàn thể sự việc này.

 

  1. (46) Chuyện Ngạ Quỷ Thành Pàtaliputta (Pàtaliputtapeta)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Jetavana.

Tương truyền một số đông thương nhân từ SàvatthiPàtaliputta đi thuyền đếnSuvannabhumì (Xứ vàng). Ở đó có một người trong bọn họ là một đệ tử tại gia luyến ái một nữ nhân, mắc bệnh và từ trần.

Mặc dù vị ấy đã làm nhiều thiện sự, vị ấy vẫn không được sanh lên thiên giới; nhưng vì luyến ái người yêu, vị ấy tái sanh làm một quỷ thần trong lâu đài giữa đại dương. Ở đấy quỷ thần vẫn giữ tình yêu đối với nữ nhân kia.

Riêng phần nàng đã lên thuyền du hành đến Xứ vàng ấy. Bấy giờ vị quỷ thần muốn chiếm nàng, liền chận đường đi của chiếc thuyền. Lúc ấy các thương nhân suy nghĩ trong trí: ‘Này, thế nào đây? Thuyền không đi được nữa!’.

Vì thế họ rút thăm để quyết định số phận mỗi người. Do thần lực, chiếc thăm rớt xuống ba lần trên không ai khác hơn nữ nhân mà quỷ thần đang mong ước.

Chẳng bao lâu sau khi nàng bị thả xuống biển thì chiếc thuyền nhanh chóng tiến lên về hướng Xứ vàng kia. Thế rồi vị phi nhân đem nàng vào lâu đài của mình và hưởng hạnh phúc bên nàng.

Một năm sau, nàng sinh ra bất mãn và cầu xin vị quỷ thần:

– Bao lâu em còn sống ở đây, em sẽ không thể tìm được các cảnh giới khác. Xin tôn ông đưa em về thành Pàtaliputta.

Ðáp lời khẩn cầu này, quỷ thần bảo:

  1. Nàng đã thấy bao địa ngục rồi,
    Các miền súc vật, quỷ và người,
    A-tu-la với Thiên thần nữa,
    Nàng đã nhận ra nghiệp chín muồi,
    Ta sẽ đưa nàng về phố cũ
    Bình an, hành thiện sự trên đời
    .

Nàng hoan hỷ đáp lại:

  1. Chàng muốn em an lạc, Dạ-xoa,
    Chàng mong em lợi ích sâu xa,
    Em xin thực hiện lời chàng dạy,
    Chàng đối với em chính đạo sư,
    Em đã thấy bao miền địa ngục,
    Các miền súc vật, quỷ, người ta,
    A-tu-la với Thiên thần nữa,
    Em đã nhìn xem nghiệp báo mà.
    Em nguyện thi hành nhiều thiện sự
    Ngay khi vừa đến chốn quê nhà.

Sau đó vị quỷ thần đem nàng ấy cùng du hành qua không gian; rồi đặt nàng xuống ngay giữa thành Pàtaliputta, và đi về đường cũ. Lập tức thân bằng quyến thuộc của nàng cùng nhiều người khác trông thấy nàng, họ vô cùng hân hoan và nhận xét:

– Chúng ta nghe trước kia nàng đã bị thả xuống biển cả và chết rồi. Thật phước đức quá! Không ngờ nàng được trở về bình an!

Vì thế họ hỏi nàng về mọi chuyện phiêu lưu mạo hiểm kia. Nàng liền kể cho họ nghe tất cả.

Khi trở về, các thương nhân ấy đến Sàvatthi trình sự việc lên bậc Ðạo Sư.

 

  1. (47) Chuyện Các Trái Xoài (Amba)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Sàvatthi.

Sàvatthi có một gia chủ đã khánh kiệt tài sản. Khi vợ từ trần, vị ấy để con gái duy nhất lại cho một người bạn, rồi vay một số tiền, mua hàng hóa lên đến một trăm đồngKahàpana và đi buôn bán theo một đoàn lữ hành.

Chẳng bao lâu vị ấy trở lại kinh thành và kiếm thêm năm trăm đồng nữa. Sau đó vị ấy đi về nhà nhưng liền bị bọn cướp tấn công. Các thương nhân chạy trốn đây đó, còn gia chủ này ném các đồng tiền vào bụi cây rồi ẩn mình.

Tuy nhiên bọn đạo tặc kia tìm ra vị ấy và giết đi. Do lòng tham luyến của cải, vị ấy tái sanh làm một ngạ quỷ ngay tại chỗ kia.

Cô con gái nhớ đến người cha quá cố liền cúng cháo gạo trong một cái bình bằng đồng và một số trái xoài dâng đức Thế Tôn, thỉnh cầu Ngài nhận lễ vật như thể do cha nàng cúng vậy. Từ đó ngạ quỷ kia hưởng thọ một lâu đài mỹ lệ.

Về sau, đám thương nhân ấy lại du hành và dừng chân ban đêm ngay đúng chỗ kia, trông thấy vị quỷ thần liền hỏi:

  1. Hồ sen ngài có diệu kỳ thay,
    Bến nước làm ta phải đắm say
    Bờ thật phẳng lì, nhiều nước mát,
    Trang hoàng hoa đủ loại như vầy,
    Một bầy ong điểm tô đây đó,
    Sao ngài được cảnh mỹ hồ này?
    2. Ðây ngài lại có một vườn xoài
    Tuyệt mỹ và sinh quả mọi thời,
    Vườn được trang hoàng hoa nở rộ,
    Bầy ong điểm xuyết khắp nơi nơi,
    Làm sao ngài được lâu đài ấy
    Xin nói cho ta biết hỡi ngài?

Quỷ thần:

  1. Con gái ta làm lễ cúng dâng
    Cháo hoa, xoài chín, nước trong ngần,
    Chính vì việc ấy nên ta được
    Hưởng bóng cây êm mát tuyệt trần.

Sau đó vị quỷ thần đưa cho họ năm trăm đồng tiền Kahàpana ấy và bảo:

– Hãy lấy một nửa số tiền đây và sau khi giải thích phần tiền kiếm được này của tôi, hãy giao nó cho con gái tôi rồi dặn: ‘Hãy sống cho đầy đủ sung sướng’.

Ðúng thời, đám thương nhân trở lại Sàvatthi, kể chuyện này với cô gái ấy, rồi đặt vào tay nàng đầy đủ số tiền mà cha nàng đã cho nàng. Nàng bèn đưa số tiền ấy giao cha nuôi. Nhưng ông trả lại hết cho nàng và bảo:

– Số tiền này không thuộc về ai cả trừ con.

Rồi ông cưới nàng về làm vợ người con trai trưởng của ông. Theo thời gian, nàng sinh được một trai và nàng thường hát ru con với bài ca này:

  1. Nhìn phước báo ngay ở cõi trần
    Do dâng lễ vật, tự điều thân.
    Xưa ta tỳ nữ nhà danh giá,
    Nay được làm dâu, nữ chủ nhân
    .

Rồi một hôm, bậc Ðạo Sư nhận xét nàng đã thuần thục trong tri thức, liền phóng một hình ảnh đầy đủ hào quang ngay trước mặt nàng và xuất hiện toàn thân.

Vào dịp này, Ngài ngâm vần kệ:

  1. Các bậc chánh chân thường nhiếp phục
    Những điều bất lạc bằng hân hoan,
    Những điều thù oán bằng từ ái,
    Nhiếp phục khổ đau với lạc an
    .

 

  1. (48) Chuyện Trục Xe và Cây Gỗ (Akkharukkha)

Trong khi bậc Ðạo Sư đang trú tại Sàvatthi, một đệ tử tại gia chất đầy hàng hóa lên xe và đi Videha (Vi-đề-ha) để buôn bán.

Khi đã đặt hàng xuống đó, vị ấy chất đầy đoàn xe số hàng hóa mới đem về và lên đường trở lại Sàvatthi.

Trong khi đang đi giữa rừng, cái trục của một chiếc xe bị gãy. Bấy giờ có một người đang muốn tìm cây gỗ, liền đem rìu lớn, rìu nhỏ đi ra khỏi làng. Khi đang đi quanh trong rừng, kẻ ấy đến nơi kia và thấy vị đệ tử tại gia đang buồn khổ vì trục xe bị gãy. Y thấy thương xót người này, liền đi đẵn cây xuống, và sau khi làm xong một trục xe vững chắc, y ráp cái trục vào xe ấy mà không lấy từ kẻ kia tiền phí tổn gì cả.

Nhưng về sau, y từ trần và tái sanh ngay chỗ này trong khi rừng làm một địa thần.

Khi suy xét hạnh nghiệp của mình, vị địa thần đến nhà người đệ tử tại gia ấy vào ban đêm, đứng ngay cửa lớn và ngâm kệ này:

Vật gì mà kẻ ấy đem cho,
Không chỉ trở thành như vật xưa,
Vậy hãy cứ phân chia tặng vật,
Nhờ đem cho, kẻ ấy đi qua
Cả hai thế giới, và do đó
Kẻ ấy đi lên. Hãy tiến tu!

Khi trở lại Sàvatthi,vị thương nhân trình chuyện này lên bậc Ðạo Sư.

 

  1. (49) Chuyện Thu Góp Tài Sản (Bhogasamharana)

Trong lúc đức Thế Tôn đang trú tại Trúc Lâm, bốn nữ nhân tại Vương Xá dùng nhiều phương tiện gian dối buôn bán sữa lạc, mật ong, dầu mè, ngũ cốc và nhiều thực phẩm khác.

Suốt đời họ chỉ lo thu góp của cải một cách ngu si, và vì vậy sau khi chết, họ tái sanh làm bầy nữ ngạ quỷ trong ống cống ngoại thành.

Ban đêm bầy ngạ quỷ chịu mọi thống khổ ngập tràn, thường đi quanh quẩn vừa thét lên những tiếng khủng khiếp vang dậy, vừa than khóc:

  1. Ta đã góp thu lắm bạc vàng
    Công bằng cùng với chẳng công bằng
    Khi người khác hưởng bao tài vật,
    Phần chúng ta nay thật thảm thương
    .

Khi dân chúng nghe chuyện này, họ vô cùng kinh hoảng và sáng hôm sau liền đem nhiều lễ vật cúng dường đến hầu cận đức Thế Tôn rồi trình lên Ngài những tiếng hét kia. Ngài lại ngâm vần kệ của bầy ngạ quỷ và kể chuyện chúng đã sống đời trước ra sao.

 

  1. (50) Chuyện Các Nam Tử Của Nhà Triệu Phú (Setthiputta)

Bấy giờ đức Thế Tôn đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên) ở Sàvatthi (Xá-vệ).

Thời ấy, một hôm Ðại vương Pasenadi (Ba-tư-nặc) của nước Kosala (Kiều-tát-la) phục sức lộng lẫy ngự trên mình voi với vẻ oai nghi đầy quyền lực. Nhà vua thấy trên thượng lầu của một nhà kia có một nữ nhân đang nhìn xuống, trông diễm lệ như một Thiên nữ.

Lòng nhà vua đâm ra mê mẩn vì trí nhà vua vốn buông lung khó kiềm chế được. Vì thế nhà vua ra hiệu cho một người ngồi kế sau mình. Và mọi việc được thực hiện giống như trong Chuyện Ngạ Quỷ Ambasakkhara, nhưng có điểm khác biệt này.

Ở đây, người đàn ông ấy thực ra đã đến nơi trước khi hoàng hôn, nhưng cổng thành đã đóng. Vì thế, y buộc vào cột trụ của cổng thành gói đất đỏ và bó sen xanh mà y đã mang về và đi vào Kỳ Viên.

Bấy giờ trong lúc đang an giấc, giữa canh khuya, nhà vua nghe bốn vần này: ‘Sa, na, duso’ được thét vang một cách đau đớn.

Tương truyền đây là bốn vần đầu của bốn câu kệ do bốn con trai một vị triệu phú thành Xá-vệ thốt ra. Vào thời hoa niên họ đã tham đắm dục lạc và đi với vợ nhiều người khác, tạo nên điều thất đức. Khi từ trần, họ tái sanh vào Ðịa ngục Chảo sắt gần kinh thành ấy.

Nhà vua vô cùng kinh hãi, và rạng ngày hôm sau liền kể cho vị tế sư nghe sự việc đã xảy ra. Vị ấy đang mong kiếm một số lợi nhuận, bèn thưa:

– Tâu Ðại vương, than ôi, một đại họa xảy ra. Xin Ðại vương cử hành tế lễ đầy đủ bốn phần.

Nhà vua truyền lệnh thi hành việc này.

Khi hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi) nghe chuyện, liền thưa với nhà vua:

– Tâu Ðại vương, tại sao vì nghe lời của một Bà-la-môn, Ðại vương lại muốn làm một việc gây tổn thương và sát hại nhiều sanh vật như vậy? Nay Ðại vương nên tham kiến đức Thế Tôn là bậc Minh Hạnh vô song và khi Ngài giải thích ra sao thì Ðại vương phải làm theo như vậy.

Sau đó vị Ðại vương đến tham kiến bậc Ðạo Sư và trình Ngài sự việc trên. Ðức Thế Tôn bảo:

– Thưa Ðại vương, Ðại vương sẽ không gặp nguy hiểm nào vì việc ấy cả.

Rồi Ngài kể chuyện ngay từ đầu về tiếng thét của những người tái sanh vào địa ngụcLohakumbhi (Chảo sắt). Sau đó Ngài đọc cho nhà vua nghe đầy đủ các vần kệ mà chúng đã bắt đầu thốt ra:

1-2. Với người trong ngục bị hành thân
Suốt cả thời gian sáu vạn năm,
Việc ấy khi nào thì chấm dứt?
– Sẽ không chấm dứt. Chẳng sau cùng.
Bao giờ chấm dứt? – Không nhìn thấy,
Quả bạn và ta phạm lỗi lầm.

3. Chúng ta đang phải sống đau thương
Vì chúng ta không biết cúng dường
Những vật cần cho khi có sẵn,
Ta không tạo chỗ trú an toàn.

4. Quả thật khi từ biệt chốn đây
Ðược làm người ở cõi đời này,
Ta nguyền hào phóng, chuyên trì giới,
Ta quyết làm nhiều thiện sự ngay.

Khi bậc Ðạo Sư ngâm các vần kệ xong, Ngài thuyết pháp đầy đủ chi tiết. Lúc kết thúc bài giảng, người đàn ông đã đi tìm đất đỏ và hoa sen ấy được an trú vào Sơ quả Dự Lưu. Còn nhà vua, lòng đầy xúc động, liền bỏ tham đắm vợ người khác và hài lòng với vợ của mình.

 

  1. (51) Chuyện Sáu Vạn Cái Búa (Satthikùtasahassa)

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Trúc Lâm.

Ngày xưa trong thành Ba-la-nại, có một người què giỏi nghề ném đá. Chuyện này là Chuyện Tiền Thân Sàlittaka số 107, phần chính được kể qua các vần kệ.

Thế rồi một hôm Tôn giả Mahà-Moggallàna đang đi xuống từ núi Linh Thứu, Tôn giả nhìn thấy ngạ quỷ này và hỏi:

  1. Tại sao ngươi cứ chạy xoay vần
    Như chú nai đi lạc phát cuồng,
    Chắc chắn ngày xưa gây ác nghiệp
    Ngươi nghĩ thế nào việc ấy chăng?

Ngạ quỷ đáp:

  1. Tôn giả, con là ngạ quỷ nhân,
    Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân,
    Vì con đã phạm hành vi ác,
    Con đến cõi ma đói ẩn thân.
    3. Sáu mươi ngàn chiếc búa vừa tròn
    Bổ xuống đầu con, chẻ sọ con.

Trưởng lão hỏi tiếp:

  1. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
    Do khẩu, ý, thân đã thực thi,
    Vì nghiệp quả nào ngươi đã tạo,
    Từ đời này đến cõi âm ty?
    5. Sáu mươi ngàn chiếc búa liên hồi
    Bổ xuống đầu ngươi, chẻ sọ ngươi!

Ngạ quỷ:

  1. Ngày xưa con thấy Su-net-ta,
    Hoàn thiện các căn, một Phật gia,
    Vừa đến gốc cây ngồi tĩnh tọa,
    An nhiên thiền định, chẳng âu lo.7. Con ném ngài bằng cục đá vôi
    Làm tan vỡ cả chiếc đầu ngài,
    Vì hành vi ấy ngày xưa phạm,
    Con phải chịu đau khổ thật dài.

    8. Sáu mươi ngàn chiếc búa vừa tròn
    Bổ xuống đầu con, chẻ sọ con.

Khi nghe vầy, vị Trưởng lão giải thích:

  1. Vì Chánh pháp, này hỡi ác nhân,
    Sáu mươi ngàn chiếc búa xoay vần
    Giờ đây đánh xuống đầu ngươi mãi,
    Chẻ nát đầu ngươi sáu vạn lần
    .

Kinh Tiểu Bộ – Tập 2 – 2.2 Chuyện Ngạ Quỷ – Phẩm IV.b – Ðại Phẩm (tiếp theo)

Bài viết liên quan

Mục lục KINH TIỂU BỘ tiếng Việt:

  1. Tổng quan Tiểu Bộ Kinh – Khuddaka Nikàya – Ðại Tạng Kinh
Kinh Pháp Cú
Kinh Phật Thuyết Như Vậy
Kinh Phật Tự Thuyết
Kinh Tập
  1. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga – 01 và 02. Kinh Rắn
  2. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .03. Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng
  3. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .04. Kinh Bhàradvàja, Người Cày Ruộng
  4. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .05. Kinh Cunda
  5. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .06. Kinh Bại Vong
  6. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .07. Kinh Kẻ Bần Tiện (Vasalasuttam)
  7. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .08. Kinh Từ Bi (Metta Sutta)
  8. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .09. Kinh Hemavata
  9. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .10. Kinh Alavaka
  10. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .11. Kinh Thắng Trận
  11. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .12. Kinh ẩn sĩ
  12. TB.T01.KT.C2.01. Kinh Châu Báu .Ratana Sutta)
  13. TB.T01.KT.C2.02. Kinh Hôi Thối .Amagandha)
  14. TB.T01.KT.C2.03. Kinh Xấu Hổ
  15. TB.T01.KT.C2.04. Kinh Ðiềm Lành Lớn .Kinh Ðại Hạnh Phúc (Mahamangala Sutta)
  16. TB.T01.KT.C2.05. Kinh Sùciloma
  17. TB.T01.KT.C2.06. Kinh Hành Chánh Pháp
  18. TB.T01.KT.C2.07. Kinh Pháp Bà-la-môn
  19. TB.T01.KT.C2.08. Kinh Chiếc Thuyền
  20. TB.T01.KT.C2.09. Thế Nào là Giới
  21. TB.T01.KT.C2.10. Kinh Ðứng Dậy
  22. TB.T01.KT.C2.11. Kinh Ràhula
  23. TB.T01.KT.C2.12. Kinh Vangìsa
  24. TB.T01.KT.C2.13. Kinh Chánh xuất gia
  25. TB.T01.KT.C2.14. Kinh Dhammika
  26. TB.T01.KT.C3.01. Kinh Xuất Gia
  27. TB.T01.KT.C3.02. Kinh Tinh Cần
  28. TB.T01.KT.C3.03. Kinh Khéo Thuyết
  29. TB.T01.KT.C3.04. Kinh Sundarika Bhàradvàja
  30. TB.T01.KT.C3.05. Kinh Màgha
  31. TB.T01.KT.C3.06-07. Kinh Sabhiya
  32. TB.T01.KT.C3.08-09. Kinh Mũi Tên
  33. TB.T01.KT.C3.10. Kinh Kokàliya
  34. TB.T01.KT.C3.11. Kinh Nàlaka
  35. TB.T01.KT.C3.12. Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán
  1. KTB.T01.KT.C4.01. Kinh về Dục
  2. KTB.T01.KT.C4.02. Kinh Hang Ðộng tám kệ
  3. KTB.T01.KT.C4.03. Kinh Sân Hận tám kệ
  4. KTB.T01.KT.C4.04. Kinh Thanh Tịnh tám kệ
  5. KTB.T01.KT.C4.05. Kinh Tối Thắng tám kệ
  6. KTB.T01.KT.C4.06. Kinh Già
  7. KTB.T01.KT.C4.07. Kinh Tissametteyya
  8. KTB.T01.KT.C4.08. Kinh Pasùra
  9. KTB.T01.KT.C4.09. Kinh Màgandiya
  10. KTB.T01.KT.C4.10. Kinh Trước khi bị hủy hoại
  11. KTB.T01.KT.C4.11. Kinh Tranh luận
  12. KTB.T01.KT.C4.12. Những vấn đề nhỏ bé
  13. KTB.T01.KT.C4.13. Những vấn đề to lớn
  14. KTB.T01.KT.C4.14. Kinh Tuvataka (Con đường mau chóng)
  15. KTB.T01.KT.C4.15. Kinh Chấp trượng
  16. KTB.T01.KT.C4.16. Kinh Sàriputta (Xá-lợi-phất)
  17. KTB.T01.KT.C5.01. Bài kệ mở đầu
  18. KTB.T01.KT.C5.02. Câu hỏi của thanh niên A-ji-ta
  19. KTB.T01.KT.C5.03. Các câu hỏi của thanh niên Tissametmeyya
  20. KTB.T01.KT.C5.04. Câu hỏi của thanh niên Punnaka
  21. KTB.T01.KT.C5.05. Câu hỏi của thanh niên Mettagu
  22. KTB.T01.KT.C5.06. Câu hỏi của thanh niên Dhotaka
  23. KTB.T01.KT.C5.07. Câu hỏi của thanh niên Upasiva
  24. KTB.T01.KT.C5.08. Các câu hỏi của thanh niên Nanda
  25. KTB.T01.KT.C5.09. Các câu hỏi của thanh niên Hemaka
  26. KTB.T01.KT.C5.10. Câu hỏi của thanh niên Todeyya
  27. KTB.T01.KT.C5.11. Câu hỏi của thanh niên Kappa
  28. KTB.T01.KT.C5.12. Câu hỏi của thanh niên Jatukanni
  29. KTB.T01.KT.C5.13. Câu hỏi của thanh niên Bhadràvudha
  30. KTB.T01.KT.C5.14. Câu hỏi của thanh niên Udaya
  31. KTB.T01.KT.C5.15. Câu hỏi của thanh niên Posàla
  32. KTB.T01.KT.C5.16. Câu hỏi của thanh niên Mogharàja
  33. KTB.T01.KT.C5.17. Câu hỏi của thanh niên Pingiya
  34. KTB.T01.KT.C5.18. Kết luận
Trưởng Lão Tăng Kệ
Trưởng Lão Ni Kệ
Chuyện Tiền Thân Đức Phật
  1. ​​​​​​​KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.01. PHẨM APANNAKA
  2. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.02. PHẨM GIỚI
  3. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.03. PHẨM KURUNGA
  4. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.04. PHẨM KULAVAKA
  5. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.05. PHẨM LỢI ÁI
  6. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.06. PHẨM ÀSIMSA
  7. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.07. PHẨM NỮ NHÂN
  8. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.08. PHẨM VARANA
  9. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.09. PHẨM APAYIMHA
  10. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.10. PHẨM LITTA
  11. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.11. PHẨM PAROSATA
  12. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.12. PHẨM HAMSA
  13. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 01. PHẨM KUSANÀLI
  14. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 02. PHẨM ASAMPADÀNA
  15. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 03. PHẨM KAKANTAKA
  16. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 04. PHẨM DALHA
  17. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 05. PHẨM SANTAHAVA
  18. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 06. PHẨM THIỆN PHÁP
  19. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 07. PHẨM ASADISA
  20. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 08. PHẨM RUHAKA
  21. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 09. PHẨM NATAMDAIHA
  22. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 10. PHẨM BIRANATTHAMBHAKA
  23. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 11. PHẨM KHÀSÀVA
  24. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 12. PHẨM UPÀHANA
  25. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 13. PHẨM SIGÀLA
  26. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C03.14. PHẨM SANKAPPA
  27. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C03.15. PHẨM KOSYA
  28. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 264-273)
  29. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 274-280)
  30. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 281-285)
  31. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 286-300)
  32. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 301-309)
  33. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 310-317)
  34. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 318-325)
  35. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 326-337)
  36. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 338-350)
  37. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C05. Phẩm Năm Bài Kệ (tt 351-358)
  38. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C05. Phẩm Năm Bài Kệ (tt 359-371)
  39. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 372-378)
  40. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 379-386)
  41. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 387-395)
  42. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C07. Phẩm bảy bài kệ
  43. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C07. Phẩm bảy bài kệ (tt 407 – 416)
  44. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C08. Phẩm Tám Bài Kệ
  45. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C08. Phẩm Tám Bài Kệ (tt 422 – 426)
  46. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C09. Phẩm Chín Bài Kệ
  47. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C09. Phẩm Chín Bài Kệ (tt 433 – 438)
  48. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C10. Phẩm Mười Bài Kệ
  49. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C10. Phẩm Mười Bài Kệ (tt 447- 454)
  50. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C11. Phẩm Mười Một Bài Kệ
  51. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C11. Phẩm Mười Một Bài Kệ (tt 460-463)
  52. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C12. Phẩm Mười Hai Bài Kệ
  53. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C12. Phẩm Mười Hai Bài Kệ (tt 468 – 473)
  54. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C13. Phẩm Mười ba bài kệ
  55. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C13. Phẩm Mười ba bài kệ (tiếp theo)
  56. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C14. Tạp phẩm
  57. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C14. Tạp phẩm (tiếp theo)
  58. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C15. Phẩm Hai Mươi Bài Kệ
  59. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C15. Phẩm Hai Mươi Bài Kệ (tiếp theo)
  60. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C16. Phẩm Ba mươi bài kệ
  61. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C16. Phẩm Ba mươi bài kệ (tiếp theo)
  62. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C17. Phẩm Bốn Mươi Bài Kệ
  63. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C18. Phẩm Năm Mươi Bài Kệ
  64. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C19. Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ
  65. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C20. Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
  66. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C21. Phẩm Tám Mươi Bài Kệ
  67. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C22. Đại Phẩm
  68. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (540)
  69. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (541)
  70. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (542)
  71. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (543)
  72. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (544)
  73. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (545)
  74. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (546)
  75. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (547)

Link xem nhanh các bộ kinh chính yếu trong Tam Tạng Thánh Ðiển:

(Xem chi tiết sơ đồ)

A. TẠNG LUẬT (VINAYAPIṬAKA)

  1. Phân tích giới
  2. Đại phẩm
  3. Tiểu phẩm
  4. Tập yếu

B. TẠNG KINH (SUTTANTAPIṬAKA)

  1. Trường bộ
  2. Trung bộ
  3. Tương ưng bộ
  4. Tăng chi bộ
  5. Tiểu bộ

C. TẠNG VÔ TỶ PHÁP (ABHIDHAMMAPIṬAKA)

  1. Pháp tụ
  2. Phân tích
  3. Chất ngữ
  4. Nhân chế định
  5. Biện giải
  6. Song đối
  7. Vị trí
Print
Email
Facebook
Twitter
LinkedIn
Skype
Telegram
Pocket
WhatsApp

Bạn đang xem bài viết: Kinh Tiểu Bộ – Tập 2 – 2.2 Chuyện Ngạ Quỷ – Phẩm IV.b – Ðại Phẩm (tiếp theo)