Tiểu Bộ – Khuddhaka Nikaya

Tập III – Trưởng Lão Tăng Kệ

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Chương XVII

Phẩm Ba Mươi Kệ

(CCLVIII) Phussa (Thera. 87)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị vua trị vì một tỉnh, được đặt tên là Phussa, và được giáo dục trong mọi tài năng của thanh niên hoàng tộc. Nhưng ngài có tâm hướng khác thường, không thiên về thế tục, nên khi nghe một vị Trưởng lão thuyết pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Tu tập thiền định, ngài phát triển thiền quán và sau một thời gian, chứng được sáu thắng trí.

Một hôm, một ẩn sĩ tên Pandara-gotta nghe ngài thuyết pháp, thấy xung quanh có một số Tỷ-kheo giới đức nghiêm minh, tu tập, chế ngự thân và tâm, vị ẩn sĩ suy nghĩ: ‘Hệ thống này thật đáng tin tưởng, mong rằng hệ thống này được tồn tại!’. Rồi vị ấy hỏi ngài về tương lai sự tiến bộ các Tỷ-kheo như thế nào? Ngài trả lời với những bài kệ như sau, riêng bài kệ 949 do các nhà kiết tập đặt thêm vào:

  1. ẩn sĩ Pan-đa-ra,
    Thấy nhiều vị thành tín,
    Tự ngã có tu tập,
    Khéo hộ trì chế ngự
    Ngài mới đặt câu hỏi,
    Với vị tên Phussa.
  2. Trong thời gian tương lai,
    Sẽ có ước muốn gì?
    Sẽ có chí nguyện gì?
    Sẽ có cử chỉ gì?
    Mong ngài hãy trả lời,
    Câu hỏi của chúng tôi.
  3. ẩn sĩ Pan-đa-ra,
    Hãy nghe lời ta nói,
    Hãy thọ trì cẩn thận,
    Ta sẽ nói tương lai.
  4. Phẫn nộ và hiềm hận,
    Che đậy và cứng đầu,
    Nhiều lừa đảo ganh tị,
    Tương lai nhiều loại vậy,
  5. Họ tự cho có trí,
    Pháp sâu, chỉ đến bờ,
    Họ khinh nhờn Chánh pháp,
    Họ không kính trọng nhau.
  6. Nhiều nguy hiểm ở đời,
    Sẽ xảy ra tương lai,
    Pháp được khéo giảng này,
    Kẻ ngu làm uế nhiễm.
  7. Trong Tăng chúng, những vị,
    Có đức hạnh hạ liệt,
    Họ thường hay tuyên bố,
    Có tự tín, không sợ,
    Kẻ không học, lắm lời,
    Sẽ đứng vào thế mạnh.
  8. Trong Tăng chúng, những vị,
    Có giới hạnh tốt đẹp,
    Khi họ có tuyên bố,
    Tuyên bố đúng sự thật,
    Họ thường ở thể yếu,
    Hổ thẹn thiếu nhiệt thành.
  9. Bạc, vàng và đồng ruộng,,
    Ðất đai, dê và cừu,
    Nô tỳ nữ và trai,
    Kẻ ngu si vô trí,
    Sẽ thâu nhận tất cả,
    Trong tương lai là vậy.
  10. Kẻ ngu dễ nóng giận,
    Không định tĩnh trong giới,
    Kiêu ngạo, đi đó đây,
    Như thú ưa đánh nhau.
  11. Họ trở thành tháo động,
    Thường đắp y màu xanh,
    Lừa đảo và ngoan cố,
    Lắm mồm, ăn nói giả,
    Họ bắt chước giả bộ,
    Như bậc Thánh thời xưa.
  12. Với tóc bôi dầu láng,
    Dao động, mắt vẽ xanh,
    Ðắp y màu trắng ngà,
    Họ qua lại trên đường.
  13. Y vàng được khéo nhuộm,
    Lá cờ bậc La-hán,
    Ðược các bậc giải thoát,
    Ðắp mang không nhàm chán,
    Còn họ chán y vàng,
    Ái luyến đắp màu trắng.
  14. Họ trở thành tham lợi,
    Biếng nhác, ít tinh cần,
    Khó sống rừng hoang vu,
    Thích sống gần xóm làng.
  15. Những ai sợ được lợi,
    Luôn luôn ưa tà mạng,
    Họ học đòi người ấy,
    Thân cận, không tự chế.
  16. Những ai không được lợi,
    Họ không trọng không kính,
    Bậc khả kính, Hiền trí,
    Họ không có thân cận.
  17. Khinh cờ hiệu của mình,
    Ưa thích màu ngoại sắc,
    Có kẻ mang y trắng,
    Lá cờ hiệu ngoại đạo.
  18. Không kính y màu vàng,
    Thời ấy họ là vậy,
    Chờ đợi màu y vàng,
    Không phải của Tỷ-kheo.
  19. Bị đau khổ chinh phục,
    Bị quặn đau tên đâm,
    Chờ đợi đại khủng bố.
    Voi ta không nghĩ nghì.
  20. Khi bậc sáu ngà thấy,
    Cờ La-hán khéo nhuộm,
    Voi nói lên những kệ,
    Liên hệ đến mục đích.
  21. Ai sẽ mặc cà-sa,
    Tâm chưa rời uế trược,
    Không tự chế, không thực,
    Không xứng áo cà-sa.
  22. Ai rời bỏ uế trược,
    Khéo định trong giới luật,
    Tự nhiếp phục chơn thực,
    Thật xứng áo cà-sa.
  23. Phá giới, trí hạ liệt,
    Không tự chế, tham dục,
    Tâm loạn, thiếu phấn chấn,
    Không xứng áo cà-sa.
  24. Ai đầy đủ giới hạnh,
    Ly tham, có định tĩnh,
    Tâm tư thật trinh bạch,
    Vị ấy xứng áo cà-sa.
  25. Ai kiêu ngạo phóng đãng,
    Ngu si, không giới hạnh,
    Xứng đáng mặc áo trắng,
    Làm gì có cà-sa.
  26. Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
    Tâm uế, không tin kính,
    Tương lai sẽ ức hiếp,
    Ðối vị có tâm từ.
  27. Kẻ ngu mang y áo,
    Dầu được Trưởng lão dạy,
    Liệt trí sẽ không nghe,
    Không tự chế, tham dục.
  28. Kẻ ngu dầu dạy vậy,
    Không có kính trọng nhau,
    Sẽ không có vâng lời,
    Lời dạy giáo thọ sư,
    Giống như ngựa bất kham,
    Ðối với người đánh xe.
  29. Như vậy, thời tương lai,
    Hành tung sẽ là vậy.
    Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni,
    Khi thời tối hậu đến,
    Hãy ôn hòa thân ái,
    Hãy cung kính lẫn nhau.
  30. Ðại nạn ấy chưa đến,
    Trước khi đại nạn đến,
    Hãy ôn hòa thân ái,
    Hãy cung kính lẫn nhau.
  31. Hãy có tâm từ bi,
    Khéo chế ngự trong giới,
    Chuyên tinh tấn nỗ lực,
    Thường kiên trì phấn chấn.
  32. Thấy nguy hiểm phóng dật,
    Không phóng dật an ổn,
    Hãy tu Tám Thánh đạo,
    Giác chứng đạo bất tử.

Như vậy vị Trưởng lão nói với Tăng chúng của mình. Các bài kệ này là lời nói chánh trí của ngài.

 

(CCLIX) Sàriputta (Thera. 89)

Ðời của ngài và đời của Moggallàna gắn liền với nhau. Trong thời đức Phật tại thế,Sàriputta sanh tại thành Upatissa, không xa Vương Xá (Ràjagaha) bao nhiêu, mẹ làRùpasàri; còn Moggallàna sanh ở thành Kolita, không xa thành Vương Xá (Ràjagaha) bao nhiêu, mẹ là Moggali. Vì cả hai là con của vị gia trưởng nên được đặt tên làUpatissaKolita. Cả hai đứa trẻ được nuôi dưỡng trong giàu sang và thiện xảo mọi khả năng.Trong một hội chợ lớn ở Vương Xá (Ràjagaha) vì tâm tư thuần thục, cả hai đều thấy tất cả quần chúng hội một trăm năm sau, sẽ bị thần chết mang đi, nên cả hai lo âu đi tìm con đường giải thoát. Cả hai xuất gia dưới sự chỉ đạo của Sanjaya, hẹn nhau ai chứng quả bất tử trước, sẽ nói cho người kia biết.

Dưới sự chỉ đạo của Sanjaya, cả hai không tìm được đạo giải thoát, và sau khi tìm hỏi các Sa-môn, Bà-la-môn gặp được Assajì và nhờ Assajì, gặp được Thế Tôn, cả hai đều xin xuất gia và được đức Phật độ cho làm Tỷ-kheo với câu: ‘Thiện lai Tỷ-kheo’.

Chứng được quả Dự lưu nhờ Assajì tóm tắt câu kệ, Moggallàna, bảy ngày sau khi xuất gia, tại làng KallavàlaMagadha, sau khi nhiếp phục được hôn trầm thụy miên, nhờ lời Thế Tôn khích lệ, sau khi nghe lời dạy về tu các giới, chứng được quả A-la-hán. CònSàriputta, nửa tháng sau khi xuất gia khi ở cùng đức Bổn Sư tại hang Sukarakhata ở Vương Xá (Ràjagaha) cũng được chứng quả A-la-hán. Về sau, tại Jetavana Thế Tôn xác chứng Sàriputta là đệ tử đệ nhất về trí tuệ và thiền quán, và Sàriputta sau khi được tôn làm nguyên soái Chánh pháp, một hôm nói lên chánh trí của mình, trước các đệ tử:

  1. Ai tùy theo năng lực,
    Có giới, tịnh, chánh niệm
    Không phóng dật hành trì,
    Sở hành đúng tư duy,
    Thích hướng nội, khéo định,
    Ðơn độc, biết tri túc,
    Với sở hành như vậy,
    Vị ấy gọi Tỷ-kheo.
  2. Ăn đồ ướt hay khô,
    Không ăn quá thỏa mãn,
    Bụng trống, ăn tiết độ,
    Tỷ-kheo trú chánh niệm.
  3. Ăn bốn, năm miếng xong,
    Rồi hãy uống nước uống,
    Thật đủ trú thoải mái,
    Với Tỷ-kheo tinh cần.
  4. Nhận lấy đồ hợp pháp,
    Y áo đáp nhu cầu,
    Thật đủ trú thoải mái,
    Với Tỷ-kheo tinh cần.
  5. Khi ngồi thế kiết-già,
    Ðầu gối phải mưa ướt,
    Thật đủ trú thoải mái,
    Với Tỷ-kheo tinh cần.
  6. Ai xem lạc là khổ,
    Ai xem khổ như tên,
    Ðứng chặng giữa cả hai,
    Do đâu, đời nắm được?
  7. Không cho ta ác dục,
    Biếng nhác tinh cần kém,
    Ít nghe, không tín kính,
    Do đâu, đời nắm được?
  8. Nghe nhiều, có hiền trí,
    Khéo định tĩnh trong giới,
    Chuyên chú an chỉ tâm,
    Hãy đứng lên trên đầu.
  9. Ai chuyên tâm hý luận,
    Như thú ưa hý luận,
    Rơi khỏi, trật Niết-bàn,
    Vô thượng, thoát khổ ách.
  10. Ai từ bỏ hý luận,
    Thích đạo phi hý luận,
    Ði đến được Niết-bàn,
    Vô thượng, thoát khổ ách
    .

Rồi vị Trưởng lão, một hôm thấy được chỗ ở của người em Revata (XLII, CCXLIV) đang ở, một khu rừng không nước đầy gai góc, ngài tán thán người em và nói:

  1. Tại làng hay trong rừng,
    Thung lũng hay đồi cao,
    Chỗ nào La-hán trú,
    Ðất ấy thật khả ái.
    992. Khả ái thay núi rừng,
    Chỗ người phàm không ưa,
    Vị ly tham sẽ thích,
    Vì không tìm dục lạc
    .

Rồi vị Trưởng lão,với lòng từ mẫn đối với Ràdha một Bà-la-môn bất hạnh, giúp Ràdhaxuất gia tu hành. Về sau, khi đang du hành, ngài khích lệ Ràdha, bằng lòng với cử chỉ khiêm tốn của Ràdha:

  1. Như người chỉ của chôn,
    Cũng vậy, người thấy lỗi,
    Nói điều người trí trách,
    Hãy gần người trí vậy.
    Thân cận người như vậy,
    Chỉ tốt hơn, không xấu.

Một hôm, bậc Ðạo Sư không đi đến để giải tán nhóm Tăng chúng của Assaji-Runabbasu được tổ chức ở đồi Kità, Sàriputta được cử đi cùng với Moggallàna và các đệ tử của mình. Khi lời khuyên của Sàriputta không được nghe theo, ngài nói như sau:

  1. Cần phải khuyên, phải dạy,
    Phải ngăn chặn bất thiện,
    Làm vậy, người thiện thương,
    Người bất thiện không ưa
    .

Khi các Tỷ-kheo nói rằng chính du sĩ Dìghanakha, được Thế Tôn giảng dạy, được sửa soạn bởi hành động quá khứ, có thể làm nhiệm vụ ấy, Sàriputta can thiệp, nói rằng không phải:

  1. Thế Tôn, bậc có mắt,
    Thuyết pháp cho người khác,
    Khi pháp được thuyết giảng,
    Ta lắng tai nhiệt tình.
  2. Ta nghe, không uổng phí,
    Giải thoát không lậu hoặc,
    Không cần biết đời trước,
    Không cần được thiên nhãn.
  3. Ta không có phát nguyện,
    Chứng được tha tâm thông,
    Biết chúng sanh sống chết,
    Hay nhĩ giới thanh tịnh.

Ba câu kệ tiếp được nói lên về ngài, khi Sàriputta trú ở tinh xá hang bồ câu, không có bị thương khi bị quỷ Dạ-xoa đánh:

  1. Ngồi dưới một gốc cây,
    Ðầu trọc, đắp đại y,
    Trưởng lão tuệ đệ nhất,
    U-pa-tis tu thiền.
  2. Ðầy đủ thiền vô tầm
    Ðệ tử bậc Chánh giác,
    Với im lặng bậc Thánh,
    Ngay lúc ấy, đạt được
  3. Giống như ngọn núi đá,
    Không động, khéo vững trú,
    Cũng vậy, vị Tỷ-kheo,
    Ðã đoạn diệt si ám,
    Vị ấy như ngọn núi,
    Không có bị dao động.

Một hôm, bậc Trưởng lão không chú tâm, để tấm y rơi xuống. Một Sa-di nói: ‘Thưa Tôn giả y cần phải đắp xung quanh thân mình’. Tôn giả tán thán lời nói của người Sa-di và đắp lại tấm y trên thân. Và nói lên điều lỗi của mình, ngài nói bài kệ:

  1. Người không có uế nhiễm,
    Luôn tầm cầu thanh tịnh,
    Ác nhẹ như đầu lông,
    Xem nặng như mây trời.

Rồi ngài nêu rõ sự xả ly của ngài đối với vấn đề sống chết.

  1. Ta không hoan hỷ chết,
    Ta không hoan hỷ sống,
    Ta sẽ bỏ thân này,
    Tỉnh giác và chánh niệm.
  2. Ta không hoan hỷ chết,
    Ta không hoan hỷ sống,
    Ta sẽ bỏ thân này,
    Như thợ làm việc xong.

Rồi khi thuyết pháp, ngài nói lên những bài kệ:

  1. Cả hai chết, không chết,
    Sau đời hay trước đời,
    Hãy dấn thân tiến bước,
    Chớ để hư, uổng phí,
    Dầu một khắc, sát-na,
    Chớ để uổng phí qua.
  2. Như ngôi thành biên địa,
    Ðược bảo vệ trong ngoài,
    Như vậy, hộ tự ngã,
    Chớ để phí sát-na,
    Sát-na qua, sầu muộn,
    Chịu khổ trong địa ngục.

Rồi một hôm, thấy Tôn giả MahaKotthita, ngài nói lên ba câu kệ, tán thán khả năng tốt đẹp của MahàKotthita.

  1. Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,
    Ðọc chú, không cống cao,
    Quét sạch các ác pháp,
    Như gió quét lá cây.
  2. Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,
    Ðọc chú, không cống cao,
    Gạt ngoài các ác pháp,
    Như gió quét lá cây.
  3. Ðạt tịch tịnh an lặng,
    Ý trong sáng không nhiễm,
    Bậc trì giới trọn lành,
    Có thể dứt đau khổ.

Câu kệ tiếp nói về các Tỷ-kheo xứ Vajjì tin tưởng ở Devadatta và chấp nhận giáo lý củaDevadatta:

  1. Có người không ai tin,
    Tại gia hay xuất gia,
    Những ai trước là tốt,
    Về sau trở thành xấu,
    Hoặc trước là người xấu.
    Sau trở thành người tốt.
  2. Hạng Tỷ-kheo tham dục,
    Sống hôn trầm thụy miên,
    Trạo cử và nghi ngờ,
    Tâm đủ năm phiền não.
    1011.Với ai, đối cả hai,
    Ðược trọng, không được trọng,
    Thiền định, không dao động,
    An trú không phóng dật.
  3. Thiền tư luôn kiên trì,
    Tuệ quán, kiến tế nhị,
    Ưa thích chấp thủ diệt,
    Vị ấy gọi chân nhân
    .

Ðể phân biệt sự sai khác, lấy Bổn Sư và mình làm thí dụ, ngài nói lên những bài kệ như sau:

  1. Biển lớn và đất lớn,
    Núi và các phương trời,
    Không ví dụ sánh được,
    Phật, giải thoát thù thắng.
  2. Trưởng lão chuyển pháp luân,
    Bậc đại trí, thiền định,
    Như đất, nước và lửa,
    Không tham không ghét bỏ.
  3. Ðạt được tuệ tối thắng,
    Ðại giác, đại Mâu-ni,
    Không chậm, tỏ chậm chạp
    Thường sống thật thanh lương.

Ðể nêu rõ bổn phận của ngài đã làm xong, ngài nói:

  1. Ta hầu hạ Bổn Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch
    .

Và khi ngài sắp nhận Niết-bàn, ngài giảng dạy các Tỷ-kheo đang họp xung quanh ngài như sau:

  1. Tinh cần, chớ phóng dật,
    Ðây lời giáo huấn ta!
    Ta sẽ nhập Niết-bàn,
    Ta thoát mọi sanh y.

 

(XXLX) Ananda (Thera. 91)

Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh trong gia đình Thích-ca Amitedana. Vì các bà con nói ngài sanh đem hoan hỷ cho gia đình, nên được đặt tên là Ananda (Khánh Hỷ). Khi lớn lên, các sự kiện xuất gia, giác ngộ, chuyển Pháp luân được diễn ra, và sau khi Thế Tôn viếng thăm Kapilavatthu, ngài xuất gia với Bhaddiya và các người khác và được Thế Tôn thế độ cho. Sau khi nghe bài thuyết pháp của Punna Mantàni, ngài chứng được Sơ quả.

Trong hai mươi năm đầu, Thế Tôn không có thị giả riêng, khi thì Nàgasamàla, khi thìNàgita, khi thì Upavàna, Sunakkhatta, Sa-di Cunda, Sàgata, Meghiya. Thế Tôn không có lựa chọn ai làm thị giả đặc biệt. Sau Thế Tôn khi đã năm mươi sáu tuổi, gợi ý muốn có một thị giả thường trực, có Tỷ-kheo đề nghị Ananda Ananda chỉ nhận lời nếu Thế Tôn chịu từ chối bốn việc và chấp nhận bốn việc. Từ chối không cho Ananda, y, đồ ăn, một phòng riêng và mời ăn, vì nếu không từ chối thời Ananda bị hiểu lầm là hầu hạ Thế Tôn để được y, đồ ăn khất thực, phòng xá và mời ăn. Chấp nhận cho Ananda bốn việc là nếu Ananda được mời ăn, Thế Tôn bằng lòng đi dự; Thế Tôn bằng lòng gặp những người từ xa đi đến và do Ananda giới thiệu; Thế Tôn chấp nhận cho Ananda yết kiến nếu Ananda gặp phân vân khó xử; Thế Tôn sẽ giảng lại những giáo lý ngài dạy khiAnanda vắng mặt. Nếu Thế Tôn không chấp nhận bốn điều này, thời sự hầu hạ củaAnanda không đem lại thiện quả gì. Thế Tôn chấp nhận điều Ananda yêu cầu.

Từ hôm ấy, Ananda hầu hạ Thế Tôn, đem nước, đem tăm xỉa răng, rửa chân, đi theo Thế Tôn, quét phòng cho Thế Tôn. Ban ngày, Ananda ở một bên đức Phật, nhắc nhở những điều cần làm; ban đêm cầm đèn và gậy. Ananda đi xung quanh phòng đức Phật sẵn sàng đáp ứng nếu Thế Tôn có gọi. Thế Tôn tại Jetavana, xác chứng Ananda là vị Tỷ-kheo đệ nhất về năm phương diện: Ða văn, tâm tư cảnh giác, sức mạnh đi bộ, lòng kiên trì và sự hầu hạ chu đáo. Như vậy, Ananda sau khi Thế Tôn nhập diệt vẫn chưa chứng quả A-la-hán, và đêm trước khi kỳ kiết tập thứ nhất được tổ chức, ngài phát tâm tinh cần tinh tấn, thiền quán suốt đêm, trong mái hiên nhưng chưa có hiệu quả. Rồi ngài vào phòng ngồi trên giường, muốn nằm xuống và khi đầu chưa đụng chiếc gối, chân chưa rời khỏi đất, trong khoảng thời gian ấy, ngài chứng được quả A-la-hán. Rồi ngài bước vào phòng kiết tập.

Các câu kệ của ngài được góp thâu lại và để vào trong tập Trưởng lão Tăng Kệ, khiKhuddaka Nikàya (Tiểu bộ kinh) được tụng đọc.

Những bài kệ đầu được nói lên, khi ngài khuyên các Tỷ-kheo thường thân cận với kẻ theo Devadatta:

  1. Hai lưỡi và phẫn nộ,
    Xan tham, thích phá hoại,
    Bậc trí không giao du,
    Kẻ ác bạn kẻ xấu.
  2. Với bậc tin, dễ thương,
    Vói bậc trí, nghe nhiều,
    Bậc Hiền trí, giao du,
    Kẻ thiện bạn chân nhân
    .

Các bài kệ sau được nói lên khi nữ cư sĩ Uttarà, vì nàng đẹp nên thiên về dục vọng và được nói lên để nàng thấy sự mỏng manh của thân nàng. Có người nói các bài kệ này nói lên cho những ai đắm say Ambapàli:

  1. Hãy xem bóng trang sức,
    Nhóm vết thương tích tụ,
    Bệnh hoạn nhiều tham tưởng,
    Nhưng không gì trường cửu.
  2. Hãy nhìn sắc trang sức,
    Với châu báu vòng tai,
    Bộ xương, da bao phủ
    Sáng chói nhờ y phục
    .

Hai câu kệ tiếp được vị Trưởng lão nói lên khi chứng quả A-la-hán, đêm ấy trên giường của mình:

  1. Nghe nhiều, diễn thuyết giỏi,
    Thị giả bậc Giác giả,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Ràng buộc được thoát ly,
    Bậc họ Gotama,
    Ðặt lưng nằm xuống nghỉ.
  2. Các lậu hoặc đoạn tận,
    Ràng buộc được thoát ly,
    Mọi chấp trước vượt qua,
    Khéo đạt được thanh lương,
    Gánh vác thân cuối cùng,
    Ðến bờ kia sanh tử.
  3. Pháp an trú trong ấy,
    Phật bà con mặt trời,
    Trên đường đến Niết-bàn
    Gotama an trú
    .

Một hôm Moggallàna người chăn bò, hỏi ngài lời dạy của đức Phật là gì, có bao nhiêu giáo lý tất cả. Vị Trưởng lão trả lời:

  1. Ta nhận từ đức Phật,
    Tám mươi hai ngàn pháp,
    Còn nhận từ Tỷ-kheo,
    Thêm hai ngàn pháp nữa,
    Tổng cộng tám tư ngàn,
    Là pháp ta chuyển vận
    .

Một hôm, vị Trưởng lão nói cho một người sống bê tha phóng đãng sự nguy hiểm của một đời sống không giáo dục văn hóa:

  1. Người ít nghe ít học,
    Lớn già như con bò,
    Những thịt nó lớn lên,
    Trí tuệ nó không lớn.

Những bài kệ tiếp nói cho vị Tỷ-kheo khinh khi những người ít học thua mình:

  1. Người học nhiều khinh miệt,
    Kẻ học ít về học,
    Như người mù mang đèn,
    Ta có ý là vậy.
  2. Hãy kính người nghe nhiều,
    Chớ hại điều sở học,
    Ðấy cội gốc Phạm hạnh,
    Do vậy, hãy trì pháp.
  3. Biết câu trước câu sau,
    Biết nghĩa, giỏi từ cú,
    Nắm giữ điều khéo nắm,
    Suy tìm trên nghĩa lý.
  4. Chính nhờ đức kham nhẫn,
    Sở nguyện được tác thành,
    Sau khi đã tinh tấn,
    Vị ấy lại cân nhắc,
    Ðúng thời, ra nỗ lực,
    Nội tâm khéo định tĩnh.
  5. Nghe nhiều, thọ trì pháp
    Có tuệ, đệ tử Phật,
    Chờ đợi thức tri pháp,
    Nên thân cận vị ấy.
  6. Nghe nhiều thọ trì pháp,
    Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,
    Cặp mắt, toàn thế giới,
    Hãy lễ vị nghe nhiều.
  7. Ưa pháp, vui thích pháp,
    Luôn suy tư Chánh pháp,
    Tỷ-kheo nhớ niệm pháp,
    Diệu pháp không tổn giảm.

Một hôm, ngài đốc thúc vị Tỷ-kheo dao động, biếng nhác như sau:

  1. Thân ích kỷ nặng chăng,
    Không có ưa hoạt động,
    Thời gian mòn mỏi qua,
    Không thể đứng dậy sao?
    Tham đắm theo thân lạc,
    Từ đâu, Sa-môn lạc?

Những câu kệ sau, Trưởng lão Ananda đọc lên khi nghe tin Sàriputta mệnh chung:

  1. Mọi phương đều mờ mịt,
    Pháp không khỏi nơi ta,
    Người bạn tốt đã đi,
    Tối tăm lan tràn khắp.
  2. Người bạn đã đi qua,
    Ðạo Sư đã đi qua,
    Bạn như vậy không còn,
    Như quán thân hành niệm.
  3. Các vị xưa đã qua,
    Vị mới ta không hạp,
    Nay một mình ta thiền,
    Như chim, khi mưa đến
    .

Câu kệ tiếp là của bậc Ðạo Sư. Câu tiếp là của Ananda, hoan hỷ làm theo lời vị Ðạo Sư:

  1. Từ các địa phương khác,
    Nhiều người yết kiến Ta,
    Chớ ngăn họ nghe pháp,
    Nay thời họ gặp Ta.
  2. Từ các địa phương khác,
    Quần chúng đến yết kiến,
    Bổn Sư cho họ dịp,
    Ðể được yết kiến Ngài;
    Bậc có mắt không có,
    Từ chối ngăn chận ai.

Năm câu kệ tiếp nêu rõ ngài là bậc thị giả đệ nhất:

  1. Trải hai mươi lăm năm
    Ta chỉ là hữu học,
    Dục tưởng không khởi lên,
    Hãy xem pháp, pháp tánh.
  2. Trải hai mươi lăm năm,
    Ta chỉ là hữu học,
    Sân tưởng không khởi lên,
    Hãy xem pháp, pháp tánh.
  3. Trải hai mươi lăm năm,
    Ta hầu hạ Thế Tôn,
    Với thân nghiệp từ hòa,
    Như bóng không rời hình.
  4. Trải hai mươi lăm năm
    Ta hầu hạ Thế Tôn,
    Với khẩu nghiệp từ hòa,
    Như bóng không rời hình.
  5. Trải hai mươi lăm năm,
    Ta hầu hạ Thế Tôn,
    Với ý nghiệp từ hòa,
    Như bóng không rời hình.
  6. Khi đức Phật kinh hành,
    Ta đi theo sau lưng,
    Khi pháp được thuyết giảng,
    Trí khởi lên nơi ta.
  7. Ta vẫn còn là người,
    Có việc cần phải làm,
    Ta chỉ là hữu học,
    Tâm ý chưa chứng đạt,
    Ðạo Sư nhập Niết-bàn,
    Ai sẽ từ mẫn ta.
  8. Như vậy thật khủng khiếp
    Như vậy thật kinh hoàng,
    Khi bậc toàn tuyệt hảo,
    Bậc Giác ngộ Niết-bàn
    .

Ba câu kệ tiếp, do các vị dự kỳ kiết tập thêm vào để tán thán Trưởng lão Ananda:

  1. Nghe nhiều, thọ trì pháp,
    Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,
    Cặp mắt toàn thế giới,
    Anan nhập Niết-bàn.
  2. Nghe nhiều, thọ trì pháp,
    Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,
    Cặp mắt toàn thế giới
    Ðoạn ám chỗ tối tăm.
  3. Ngài là bậc ẩn sĩ,
    Với hành vị tuyệt hảo,
    Với chánh niệm tuyệt hảo,
    Với kiên trì tuyệt hảo,
    Thọ trì chân diệu pháp,
    Là Trưởng lão A-nan,
    Là kho tàng sống động,
    Ðầy châu báu ngọc ngà.

Câu kệ này được Ananda nói lên khi nằm trên giường, trong giờ phút cuối cùng:

  1. Ta hầu hạ Bổn Sư,
    Lời Phật dạy làm xong,
    Gánh nặng đã đặt xuống,
    Gốc sanh hữu nhổ sạch.

Kinh Tiểu Bộ – Tập III – Trưởng Lão Tăng Kệ – Chương XVII – Phẩm Ba Mươi Kệ

Bài viết liên quan

Mục lục KINH TIỂU BỘ tiếng Việt:

  1. Tổng quan Tiểu Bộ Kinh – Khuddaka Nikàya – Ðại Tạng Kinh
Kinh Pháp Cú
Kinh Phật Thuyết Như Vậy
Kinh Phật Tự Thuyết
Kinh Tập
  1. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga – 01 và 02. Kinh Rắn
  2. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .03. Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng
  3. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .04. Kinh Bhàradvàja, Người Cày Ruộng
  4. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .05. Kinh Cunda
  5. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .06. Kinh Bại Vong
  6. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .07. Kinh Kẻ Bần Tiện (Vasalasuttam)
  7. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .08. Kinh Từ Bi (Metta Sutta)
  8. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .09. Kinh Hemavata
  9. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .10. Kinh Alavaka
  10. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .11. Kinh Thắng Trận
  11. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .12. Kinh ẩn sĩ
  12. TB.T01.KT.C2.01. Kinh Châu Báu .Ratana Sutta)
  13. TB.T01.KT.C2.02. Kinh Hôi Thối .Amagandha)
  14. TB.T01.KT.C2.03. Kinh Xấu Hổ
  15. TB.T01.KT.C2.04. Kinh Ðiềm Lành Lớn .Kinh Ðại Hạnh Phúc (Mahamangala Sutta)
  16. TB.T01.KT.C2.05. Kinh Sùciloma
  17. TB.T01.KT.C2.06. Kinh Hành Chánh Pháp
  18. TB.T01.KT.C2.07. Kinh Pháp Bà-la-môn
  19. TB.T01.KT.C2.08. Kinh Chiếc Thuyền
  20. TB.T01.KT.C2.09. Thế Nào là Giới
  21. TB.T01.KT.C2.10. Kinh Ðứng Dậy
  22. TB.T01.KT.C2.11. Kinh Ràhula
  23. TB.T01.KT.C2.12. Kinh Vangìsa
  24. TB.T01.KT.C2.13. Kinh Chánh xuất gia
  25. TB.T01.KT.C2.14. Kinh Dhammika
  26. TB.T01.KT.C3.01. Kinh Xuất Gia
  27. TB.T01.KT.C3.02. Kinh Tinh Cần
  28. TB.T01.KT.C3.03. Kinh Khéo Thuyết
  29. TB.T01.KT.C3.04. Kinh Sundarika Bhàradvàja
  30. TB.T01.KT.C3.05. Kinh Màgha
  31. TB.T01.KT.C3.06-07. Kinh Sabhiya
  32. TB.T01.KT.C3.08-09. Kinh Mũi Tên
  33. TB.T01.KT.C3.10. Kinh Kokàliya
  34. TB.T01.KT.C3.11. Kinh Nàlaka
  35. TB.T01.KT.C3.12. Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán
  1. KTB.T01.KT.C4.01. Kinh về Dục
  2. KTB.T01.KT.C4.02. Kinh Hang Ðộng tám kệ
  3. KTB.T01.KT.C4.03. Kinh Sân Hận tám kệ
  4. KTB.T01.KT.C4.04. Kinh Thanh Tịnh tám kệ
  5. KTB.T01.KT.C4.05. Kinh Tối Thắng tám kệ
  6. KTB.T01.KT.C4.06. Kinh Già
  7. KTB.T01.KT.C4.07. Kinh Tissametteyya
  8. KTB.T01.KT.C4.08. Kinh Pasùra
  9. KTB.T01.KT.C4.09. Kinh Màgandiya
  10. KTB.T01.KT.C4.10. Kinh Trước khi bị hủy hoại
  11. KTB.T01.KT.C4.11. Kinh Tranh luận
  12. KTB.T01.KT.C4.12. Những vấn đề nhỏ bé
  13. KTB.T01.KT.C4.13. Những vấn đề to lớn
  14. KTB.T01.KT.C4.14. Kinh Tuvataka (Con đường mau chóng)
  15. KTB.T01.KT.C4.15. Kinh Chấp trượng
  16. KTB.T01.KT.C4.16. Kinh Sàriputta (Xá-lợi-phất)
  17. KTB.T01.KT.C5.01. Bài kệ mở đầu
  18. KTB.T01.KT.C5.02. Câu hỏi của thanh niên A-ji-ta
  19. KTB.T01.KT.C5.03. Các câu hỏi của thanh niên Tissametmeyya
  20. KTB.T01.KT.C5.04. Câu hỏi của thanh niên Punnaka
  21. KTB.T01.KT.C5.05. Câu hỏi của thanh niên Mettagu
  22. KTB.T01.KT.C5.06. Câu hỏi của thanh niên Dhotaka
  23. KTB.T01.KT.C5.07. Câu hỏi của thanh niên Upasiva
  24. KTB.T01.KT.C5.08. Các câu hỏi của thanh niên Nanda
  25. KTB.T01.KT.C5.09. Các câu hỏi của thanh niên Hemaka
  26. KTB.T01.KT.C5.10. Câu hỏi của thanh niên Todeyya
  27. KTB.T01.KT.C5.11. Câu hỏi của thanh niên Kappa
  28. KTB.T01.KT.C5.12. Câu hỏi của thanh niên Jatukanni
  29. KTB.T01.KT.C5.13. Câu hỏi của thanh niên Bhadràvudha
  30. KTB.T01.KT.C5.14. Câu hỏi của thanh niên Udaya
  31. KTB.T01.KT.C5.15. Câu hỏi của thanh niên Posàla
  32. KTB.T01.KT.C5.16. Câu hỏi của thanh niên Mogharàja
  33. KTB.T01.KT.C5.17. Câu hỏi của thanh niên Pingiya
  34. KTB.T01.KT.C5.18. Kết luận
Trưởng Lão Tăng Kệ
Trưởng Lão Ni Kệ
Chuyện Tiền Thân Đức Phật
  1. ​​​​​​​KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.01. PHẨM APANNAKA
  2. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.02. PHẨM GIỚI
  3. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.03. PHẨM KURUNGA
  4. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.04. PHẨM KULAVAKA
  5. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.05. PHẨM LỢI ÁI
  6. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.06. PHẨM ÀSIMSA
  7. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.07. PHẨM NỮ NHÂN
  8. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.08. PHẨM VARANA
  9. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.09. PHẨM APAYIMHA
  10. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.10. PHẨM LITTA
  11. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.11. PHẨM PAROSATA
  12. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.12. PHẨM HAMSA
  13. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 01. PHẨM KUSANÀLI
  14. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 02. PHẨM ASAMPADÀNA
  15. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 03. PHẨM KAKANTAKA
  16. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 04. PHẨM DALHA
  17. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 05. PHẨM SANTAHAVA
  18. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 06. PHẨM THIỆN PHÁP
  19. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 07. PHẨM ASADISA
  20. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 08. PHẨM RUHAKA
  21. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 09. PHẨM NATAMDAIHA
  22. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 10. PHẨM BIRANATTHAMBHAKA
  23. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 11. PHẨM KHÀSÀVA
  24. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 12. PHẨM UPÀHANA
  25. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 13. PHẨM SIGÀLA
  26. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C03.14. PHẨM SANKAPPA
  27. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C03.15. PHẨM KOSYA
  28. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 264-273)
  29. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 274-280)
  30. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 281-285)
  31. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 286-300)
  32. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 301-309)
  33. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 310-317)
  34. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 318-325)
  35. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 326-337)
  36. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 338-350)
  37. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C05. Phẩm Năm Bài Kệ (tt 351-358)
  38. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C05. Phẩm Năm Bài Kệ (tt 359-371)
  39. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 372-378)
  40. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 379-386)
  41. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 387-395)
  42. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C07. Phẩm bảy bài kệ
  43. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C07. Phẩm bảy bài kệ (tt 407 – 416)
  44. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C08. Phẩm Tám Bài Kệ
  45. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C08. Phẩm Tám Bài Kệ (tt 422 – 426)
  46. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C09. Phẩm Chín Bài Kệ
  47. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C09. Phẩm Chín Bài Kệ (tt 433 – 438)
  48. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C10. Phẩm Mười Bài Kệ
  49. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C10. Phẩm Mười Bài Kệ (tt 447- 454)
  50. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C11. Phẩm Mười Một Bài Kệ
  51. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C11. Phẩm Mười Một Bài Kệ (tt 460-463)
  52. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C12. Phẩm Mười Hai Bài Kệ
  53. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C12. Phẩm Mười Hai Bài Kệ (tt 468 – 473)
  54. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C13. Phẩm Mười ba bài kệ
  55. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C13. Phẩm Mười ba bài kệ (tiếp theo)
  56. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C14. Tạp phẩm
  57. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C14. Tạp phẩm (tiếp theo)
  58. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C15. Phẩm Hai Mươi Bài Kệ
  59. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C15. Phẩm Hai Mươi Bài Kệ (tiếp theo)
  60. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C16. Phẩm Ba mươi bài kệ
  61. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C16. Phẩm Ba mươi bài kệ (tiếp theo)
  62. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C17. Phẩm Bốn Mươi Bài Kệ
  63. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C18. Phẩm Năm Mươi Bài Kệ
  64. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C19. Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ
  65. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C20. Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
  66. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C21. Phẩm Tám Mươi Bài Kệ
  67. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C22. Đại Phẩm
  68. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (540)
  69. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (541)
  70. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (542)
  71. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (543)
  72. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (544)
  73. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (545)
  74. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (546)
  75. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (547)

Link xem nhanh các bộ kinh chính yếu trong Tam Tạng Thánh Ðiển:

(Xem chi tiết sơ đồ)

A. TẠNG LUẬT (VINAYAPIṬAKA)

  1. Phân tích giới
  2. Đại phẩm
  3. Tiểu phẩm
  4. Tập yếu

B. TẠNG KINH (SUTTANTAPIṬAKA)

  1. Trường bộ
  2. Trung bộ
  3. Tương ưng bộ
  4. Tăng chi bộ
  5. Tiểu bộ

C. TẠNG VÔ TỶ PHÁP (ABHIDHAMMAPIṬAKA)

  1. Pháp tụ
  2. Phân tích
  3. Chất ngữ
  4. Nhân chế định
  5. Biện giải
  6. Song đối
  7. Vị trí
Print
Email
Facebook
Twitter
LinkedIn
Skype
Telegram
Pocket
WhatsApp

Bạn đang xem bài viết: Kinh Tiểu Bộ – Tập III – Trưởng Lão Tăng Kệ – Chương XVII – Phẩm Ba Mươi Kệ