Tiểu Bộ – Khuddhaka Nikaya

Tập III – Trưởng Lão Tăng Kệ

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Chương XXI

Phẩm Bảy Mươi Mốt Kệ
(Ðại Tập)

(CCLXIV) Vangìsa (Thera. 109)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vangìsa và được dạy ba tập Vệ-đà. Ngài được trọng vọng cúng dường, nhờ gõ trên sọ người và biết được kiếp trước của người ấy. Các Bà-la-môn thấy Vangìsa là một nguồn lợi dưỡng nên đem ngài đi chỗ này chỗ khác. Trong ba năm, Vangìsa đoán kiếp trước trên các sọ người được mang đến, và lấy tiền khoảng một trăm, một ngàn,Kahapana (đồng tiền vàng) mỗi đầu người. Ngài nghe danh tiếng của Thế Tôn, muốn đến yết kiến Thế Tôn, nhưng các Bà-la-môn ngăn lại.

Vangìsa không nghe đi yết kiến đức Phật. Khi đức Phật hỏi Vangìsa biết được nghề gì, ngài trả lời có thể đoán được sọ người, bằng cách lấy móng tay gõ trên sọ người và đoán được số mệnh người ấy trong ba năm. Thế Tôn bảo Vangìsa đoán sọ người sanh vào địa ngục, vào loài Người, hàng chư Thiên và một vị giải thoát. Vangìsa có thể đoán số mạng ba hạng người kia nhưng đối với vị đã giải thoát thời không thể nói được gì. Cuối cùng, ngài yêu cầu Thế Tôn và được trả lời như sau:

Ai biết thật hoàn toàn,
Sự sanh diệt chúng sanh,
Không tham trước, Thiện Thệ,
Giác ngộ đạt Chánh giác,
Vị ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn,
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà,
Không biết chỗ sở thú,
Lậu hoặc được đoạn trừ,
Bậc Ứng Cúng, La-hán,
Vị ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
(Kinh Tập, kệ 643-644 – Trung Bộ kinh II, 196M)

Sau khi nghe xong, Vangìsa yêu cầu đức Phật dạy cho con đường đạt đến đích ấy, xin xuất gia và đức Phật bảo Trưởng lão Nigrodhakappa độ cho xuất gia rồi dạy cho quán ba mươi hai bộ phận của thân và tuệ quán. Cuối cùng ngài chứng quả A-la-hán, từ bỏ các Bà-la-môn cũ, dùng nhiều câu tán thán Thế Tôn (Si, 185) và đức Phật xác chứng ngài là vị Tỷ-kheo đệ nhất về thuyết pháp. Những điều ngài nói lên trước và sau khi chứng quả A-la-hán được kiết tập bởi ngài Ananda và các vị khác trong kỳ kiết tập thứ nhất như sau:

I

Khi còn là Sa-di, sau khi bị ảnh hưởng vì thấy nhiều thiếu nữ mặc áo đẹp, ngài nói lên những cảm thọ được nhiếp phục của ngài:

  1. Với ta đã xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà,
    Tư tưởng này chạy loạn,
    Khởi lên từ hắc ám.
  2. Nhà bắn cung thiện xảo,
    Thượng sanh giỏi cung pháp,
    Ngàn người bắn khắp phía,
    Không nao núng chút nào.
  3. Nếu phụ nữ có đến,
    Dầu nhiều hay đông hơn,
    Sẽ không dao động ta,
    Vì ta trú Chánh pháp.
  4. Chính ta từng được nghe,
    Phật dòng họ Mặt Trời,
    Giảng đạo hướng Niết-bàn,
    Ở đây ý ta thích.
  5. Như vậy ta an trú,
    Ác ma, ngươi có đến,
    Ta sẽ làm như vậy,
    Ngươi không thấy đường ta
    .

II

Ðược nói khi nhiếp phục các cảm thọ của mình như sân hận v.v…

  1. Ta bỏ lạc bất lạc,
    Mọi tâm tư gia sự,
    Không tạo một chỗ nào,
    Thành cơ sở tham dục,
    Ai thoát rừng, ly tham,
    Mới ứng danh Tỷ-kheo.
  2. Phàm địa giới, không giới,
    Cả sắc giới trong đời,
    Ðều biến hoại vô thường,
    Hiểu vậy, sống liễu tri.
  3. Chúng sanh thường chấp trước,
    Ðối với các sanh y,
    Ðối vật họ thấy nghe,
    Họ xúc chạm suy tư,
    Ở đây ai đoạn dục,
    Tâm tư không nhiễm ô.
    Không mắc dính chỗ này,
    Vị ấy danh Mâu-ni.
  4. Ðối sáu mươi tám kiến,
    Thuộc phàm phu phi pháp,
    Không học phái tà chấp,
    Vị ấy chân Tỷ-kheo.
  5. Vẹn toàn, tâm thường định,
    Không dối trá thận trọng,
    Ly ái, vị Mâu-ni,
    Chứng đạt đường an tịnh,
    Tùy duyên nhập Niết Bàn,
    Vị ấy chờ thời đến.

III

Nói đến khi ngài nhiếp phục cử chỉ của ngài về khả năng nói dễ dàng của mình:

  1. Ðệ tử Gotama,
    Hãy từ bỏ kiêu mạn,
    Trên con đường kiêu mạn,
    Hãy tránh né hoàn toàn,
    Ham mê đường kiêu mạn,
    Sẽ hối trách dài dài.
  2. Bị lừa bởi lừa dối,
    Bị hại bởi kiêu mạn,
    Loài Người rơi địa ngục,
    Chúng sầu khổ lâu dài,
    Bị hại về kiêu mạn,
    Họ phải sanh địa ngục.
  3. Không bao giờ sầu muộn,
    Tỷ-kheo chiến thắng đạo,
    Chơn chánh dấn thân bước,
    Hưởng danh dự an lạc,
    Như thật được tên gọi,
    Là bậc đã thấy pháp.
  4. Do vậy ở đời này,
    Không thô lậu, không kiêu,
    Ðoạn triền cái, thanh tịnh,
    Ðoạn kiêu mạn, không dư,
    Với minh, tâm an tịnh,
    Bậc đoạn tận khổ đau
    .

IV

Khi còn là Sa-di, ngài hầu Tôn giả Ananda, khi Tôn giả được một vị đại thần của vua mời đến thăm Tôn giả và ngài được vây quanh với những nữ nhân trang sức đẹp đẽ, những người này kính lễ Tôn giả, hỏi thăm và nghe Tôn giả thuyết pháp. NhưngVangìsa lại bị kích thích và tham dục khởi lên. Ngài nghĩ như vậy là không tốt cho hiện tại và tương lai của ngài. Ngài nói lên tâm trạng của mình cho Tôn giả Ananda:

  1. Dục ái đốt cháy tôi!
    Tâm tôi bị thiêu cháy,
    Lành thay Gotama,
    Vì lòng từ nói lên,
    Pháp tiêu diệt lửa hừng.

Và Tôn giả Ananda trả lời:

  1. Chính vì điên đảo tưởng,
    Tâm ông bị thiêu đốt,
    Hãy từ bỏ tịnh tướng,
    Hệ lụy đến tham dục.
  2. Nhìn các hành vô thường,
    Khổ đau, không phải ngã,
    Dập tắt đại tham dục,
    Chớ để bị cháy dài,
    Hãy tu tâm bất tịnh,
    Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
    Tu tập thân hành niệm,
    Hành hạnh nhiều yếm ly.
  3. Hãy tập hạnh vô tướng,
    Ðoạn diệt mạn tùy miên,
    Nhờ quán sân kiêu mạn,
    Hạnh ông sẽ an tịnh.

V

Ðược nói lên sau khi Thế Tôn dạy kinh về ‘Sự vật được khéo nói’, tán thán Thế Tôn:

  1. Ai nói lên lời gì,
    Lời ấy không khổ mình,
    Lời không làm hại người,
    Lời ấy là thiện thuyết.
  2. Ai nói lời ái ngữ,
    Lời nói khiến hoan hỷ,
    Lời nói không ác độc,
    Lời nói là ái ngữ.
  3. Lời chân, lời bất tử,
    Thường pháp xưa là vậy,
    Thiện nhân trú trên chân,
    Trên nghĩa và trên pháp.
  4. Lời đức Phật nói lên,
    Ðạt an ổn Niết-bàn,
    Chấm dứt mọi khổ đau,
    Thật nói lời tối thượng.

VI

Nói lên để tán thán Tôn giả Sàriputta:

  1. Trí tuệ thâm, trí giả,
    Thiện xảo đạo, phi đạo,
    Xá-lợi-phất đại trí,
    Thuyết pháp chúng Tỷ-kheo.
  2. Ngài giảng cách tóm tắt,
    Ngài cũng thuyết rộng rãi,
    Như tiếng chim Sà-li,
    Tiếng ngài được nói lên.
  3. Lời ngài giảng tuôn trào,
    Tiếng ngài nghe ngọt lịm,
    Với giọng điệu ái luyến,
    Êm tai và mỹ diệu,
    Họ lắng tai nghe pháp,
    Tâm phấn khởi hoan hỷ.

VII

Nói lên sau khi Thế Tôn thuyết trong kinh Pavàranà (Tự Tứ):

  1. Nay ngày rằm thanh tịnh,
    Năm trăm Tỷ-kheo họp,
    Bậc Thánh đoạn kiết phược,
    Vô phiền, dứt tái sanh.
  2. Như vua chuyển luân vương
    Ðại thần hầu xung quanh,
    Du hành khắp bốn phương,
    Ðất này đến hải biên.
  3. Như vậy các đệ tử,
    Ðã chứng được Ba minh,
    Sát hại được tử thần,
    Những vị này hầu hạ,
    Bậc thắng trận chiến trường,
    Vô thượng lữ hành chủ.
  4. Tất cả con Thế Tôn,
    Không ai là vô dụng,
    Xin chí thành đảnh lễ,
    Bậc nhổ tên khát ái,
    Xin tâm thành cung kính
    Bậc dòng họ Mặt Trời.

VIII

Nói lên tán thán Thế Tôn khi Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về vấn đề Niết-bàn:

  1. Hơn một ngàn Tỷ-kheo
    Hầu hạ bậc Thiện Thệ,
    Ngài thuyết vô cấu pháp
    Niết-bàn vô bố úy.
  2. Họ nghe pháp rộng lớn
    Bậc Chánh giác thuyết giảng;
    Bậc Chánh giác chói sáng,
    Chúng Tỷ-kheo vây quanh.
  3. Bạch Thế Tôn, Thiện Thệ,
    Ngài thật bậc Long tượng
    Bậc ẩn sĩ thứ bảy,
    Trong các vị ẩn sĩ,
    Ngài trở thành mây lớn,
    Mưa móc ban đệ tử.
  4. Con từ nghỉ trưa đến,
    Muốn yết kiến Ðạo Sư,
    Ôi bậc Ðại anh hùng,
    Con là đệ tử Ngài,
    Con tên Vangìsa,
    Ðảnh lễ dưới chân Ngài.

Rồi Thế Tôn hỏi:

– Này Vangìsa, những bài kệ này của Ông, có phải Ông suy nghĩ từ trước hay được khởi lên tại chỗ?

– Bạch Thế Tôn, những bài kệ này của con, không phải suy nghĩ từ trước chính được khởi lên tại chỗ.

– Vậy này Vangìsa, hãy cho nhiều bài kệ nữa, không suy nghĩ từ trước, được khởi lên tại chỗ.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, Tôn giả Vangìsa vâng đáp Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán Thế Tôn, những bài kệ không suy nghĩ từ trước:

  1. Thắng Ác ma tà đạo,
    Ngài sống chướng ngại đoạn,
    Hãy thấy bậc giải thoát,
    Thoát ly mọi hệ phược,
    Không y trước phân tích,
    Thành từng phần rõ ràng.
  2. Ngài nói lên con đường,
    Nhiều pháp môn khác biệt,
    Giúp mọi người vượt qua,
    Dòng bộc lưu nguy hiểm,
    Chính trên pháp bất tử,
    Ðược ngài thường tuyên thuyết
    Chúng con bậc pháp kiến,
    Vững trú, không thối chuyển.
  3. Bậc tạo dựng quanh mình,
    Ngài thâm nhập các pháp,
    Thấy được chỗ vượt qua,
    Tất cả mọi kiến xứ,
    Sau khi biết và chứng,
    Ngài thuyết tối thượng xứ.
  4. Pháp như vậy khéo giảng
    Ai có thể phóng dật,
    Khi được biết pháp ấy,
    Pháp khéo giảng như vậy,
    Do vậy trong giáo pháp,
    Ðức Thế Tôn, Thiện Thệ,
    Luôn luôn không phóng dật,
    Hãy đảnh lễ, tu học.

IX

Nói lên để tán thán Tôn giả Annà Kondannà (An-nhã Kiều-trần-như):

  1. Sau đức Phật hiện tại,
    Trưởng lão được Chánh giác,
    Chính là Kondannà,
    Nhiệt tâm và tinh cần,
    Chứng được an lạc trú,
    Sống viễn ly liên tục.
  2. Thực hành lời sư dạy,
    Ðệ tử chứng được gì,
    Tất cả ngài chứng được,
    Nhờ tu học tinh tấn.
  3. Ðại uy lực ba minh,
    Thiện xảo tâm tư người,
    Phật tử Kondannà
    Ðảnh lễ chân Ðạo Sư
    .

X

Nói lên để tán thán Tôn giả Moggallàna, trước mặt Thế Tôn, khi Tôn giả Moggallànanhận thấy tâm của năm trăm vị La-hán, hội họp tại Hắc Sơn, trên sườn núi Isigili, tạiRajagaha đều giải thoát khỏi tái sanh:

  1. Cao trên sườn đồi núi
    Những vị chứng Ba minh,
    Những vị đoạn tử thần,
    Các đệ tử hầu hạ,
    Bậc Thánh giả Mâu-ni,
    Ðã vượt qua đau khổ.
  2. Ðại thần lực Mục-liên,
    Quán tâm các vị ấy
    Biết họ được giải thoát
    Không còn có sanh y.
  3. Như vậy họ hầu hạ,
    Gotama Mâu-ni
    Ngài vượt qua đau khổ,
    Mọi sở hành đầy đủ,
    Mọi đức tánh vẹn toàn.

XI

Nói lên để tán thán Thế Tôn, chói sáng với dung sắc và huy hoàng của mình, khi Thế Tôn được chúng Tăng và cư sĩ bao vây xung quanh tại hồ sen GaggaraCampà:

  1. Như mặt trăng giữa trời
    Mây mù được quét sạch,
    Chói sáng như mặt trời,
    Thanh tịnh không cấu uế,
    Cũng vậy Ngài thật là,
    Ðại Mâu-ni Hiền thánh,
    Danh xưng ngài sáng chói,
    Vượt qua mọi thế giới.

XII

Nói lên khi ngài mới chứng quả A-la-hán, suy tư trên kinh nghiệm của mình và về Bổn sư:

  1. Thuở trước ta mê thơ,
    Bộ hành khắp mọi nơi,
    Từ làng này thành này,
    Qua làng khác thành khác,
    Ta thấy bậc Chánh giác
    Ðạt bờ kia mọi pháp.
  2. Nghe pháp ta tín thành
    Tín khởi lên nơi ta.
  3. Ta nghe lời Ngài dạy,
    Về uẩn, xứ và giới,
    Sau khi biết, xuất gia,
    Bỏ nhà, sống không nhà.
  4. Vì hạnh phúc số đông,
    Như Lai sanh ở đời,
    Ngài tạo ra giải pháp,
    Cho nữ nhân, nam nhân.
  5. Vì hạnh phúc của họ,
    Mâu-ni chứng Bồ-đề,
    Ngài thấy luật chi phối
    Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni.
  6. Vì lòng thương chúng sanh,
    Bốn sự thật khéo thuyết,
    Bởi vị có con mắt
    Phật, bà con Mặt Trời.
  7. Ngài thuyết Khổ, Khổ tập
    Sự vượt qua đau khổ,
    Con đường đạo Tám ngành,
    Ðưa đến khổ an chỉ.
  8. Như vậy là những điều
    Ðược nói lên như thật,
    Và ta được thấy họ
    Ðúng như thật là vậy,
    Ta đạt được mục đích,
    Lời Phật dạy làm xong.
  9. Thật tốt thay cho ta!
    Ðược sống gần đức Phật,
    Trong các pháp phân tích,
    Pháp tối thượng, ta đến.
  10. Ðại thắng trí tuyệt đích,
    Thế giới được thanh tịnh,
    Ðạt Ba minh, thần lực,
    Thiện xảo biết tâm người
    .

XIII

Hỏi giáo thọ sư của mình là Nigrodha Kappa có nhập Niết-bàn khi mệnh chung:

  1. Con hỏi bậc Ðạo Sư,
    Bậc trí tuệ tối thắng
    Tại Aggàlava
    Tỷ-kheo đã mệnh chung,
    Có danh vọng danh xưng
    Nhập Niết-bàn tịch tịnh.
  2. Nigrodha Kappa
    Chính là tên vị ấy,
    Chính Thế Tôn đặt tên,
    Cho vị Phạm-chí ấy!
    Vị ấy đảnh lễ cầu Ngài,
    Sống tầm cầu giải thoát,
    Tinh cần và tinh tấn,
    Kiên cố thấy Chánh pháp.
  3. Bạch Thích-ca, chúng con
    Ðệ tử Ngài tất cả,
    Chúng con đều muốn biết,
    Thưa bậc Nhãn biến tri!
    An trú tai chúng con,
    Sẵn sàng để được nghe,
    Ngài Ðạo Sư chúng con
    Ngài là bậc Vô thượng.
  4. Hãy đoạn nghi chúng con,
    Hãy nói con vị ấy,
    Ðã được tịch tịnh chưa?
    Bậc trí tuệ rộng lớn!
    Hãy nói giữa chúng con,
    Bậc có mắt cùng khắp,
    Như Thiên chủ Ðế Thích,
    Lãnh đạo ngàn chư Thiên.
  5. Phàm những cột gút gì,
    Ở đây, đường si ám,
    Dự phần với vô trí
    Trú xứ cho nghi hoặc,
    Gặp được đức Như Lai,
    Họ đều không còn nữa,
    Mắt này mắt tối thắng,
    Giữa cặp mắt loài người.
  6. Nếu không có người nào,
    Ðoạn trừ các phiền não,
    Như gió thổi tiêu tan,
    Các tầng mây dưới thấp,
    Màn đêm tức bao trùm,
    Tất cả toàn thế giới,
    Những bậc có hào quang,
    Không có thể chói sáng.
  7. Bậc trí là những vị,
    Tạo ra những ánh sáng,
    Con xem ngài như vậy
    Ôi bậc trí sáng suốt.
    Chúng con đều cùng đến,
    Bậc tu hành thiền quán,
    Giữa hội chúng chúng con,
    Hãy nói về Kappa!
  8. Hãy gấp, phát tiếng lên,
    Tiếng âm thanh vi diệu,
    Như con chim thiên nga,
    Giương cổ lên để hát,
    Phát âm từng tiếng một,
    Với giọng khéo ngân nga,
    Tất cả bọn chúng con,
    Trực tâm nghe lời ngài.
  9. Vị đoạn tận sanh tử,
    Không còn chút dư tàn,
    Vị tẩy sạch phiền não,
    Con cầu ngài thuyết pháp,
    Kẻ phàm phu không thể,
    Làm theo điều nó muốn,
    Bậc Như Lai làm được
    Ðiều được ước định làm.
  10. Câu trả lời của ngài,
    Thật đầy đủ trọn vẹn,
    Ðược chơn chánh nắm giữ,
    Bậc chánh trực trí tuệ,
    Hãy chấp tay cuối cùng,
    Con khéo vái chào ngài,
    Chớ làm con si ám,
    Bậc trí tuệ tối cao!.
  11. Sau khi đã được biết,
    Thánh pháp thượng và hạ,
    Chớ làm con si ám,
    Bậc tinh tấn tối cao,
    Như vào giữa mùa hè,
    Nóng bức khát khao nước
    Chúng con ngóng trông lời,
    Hãy mưu sự hiểu biết!.
  12. Kappa sống Phạm hạnh,
    Nếp sống có mục đích,
    Phải chăng sống như vậy,
    Là sống không uổng phí!
    Vị ấy chứng tịch tịnh,
    Hay còn dư tàn lại,
    Ðược giải thoát thế nào,
    Hãy nói chúng con nghe.

Thế Tôn:

  1. Vị ấy trên danh sắc
    Ðã đoạn tận tham ái,
    Thế Tôn ở nơi đây,
    Ðã trả lời như vậy,
    Vượt qua được già chết,
    Không còn có dư tàn,
    Thế Tôn nói như vậy,
    Bậc tối thắng thứ năm
    .

Vangìsa:

  1. Nghe vậy, con tịnh tín,
    Với lời nói của ngài,
    Bậc ẩn sĩ thứ bảy!
    Và lời hỏi của con,
    Không phải là vô ích!
    Và vị Bà-la-môn,
    Không có lừa dối con.
  2. Nói gì thời làm vậy,
    Thật xứng đệ tử Phật,
    Chặt đứt lưới rộng chắc,
    Của thần chết xảo quyệt.
  3. Ôi Thế Tôn, Kappa,
    Thấy căn nguyên chấp thủ,
    Thật sự đã vượt qua,
    Thế lực của Ma vương,
    Thế lực thật khó vượt.
  4. Ngài lớn hơn chư Thiên,
    Con đảnh lễ kính Ngài!
    Con đảnh lễ con Ngài!
    Bậc tối thượng hai chân
    Bậc Hậu duệ, Ðại hùng!
    Bậc Long tượng đích tôn.

Như vậy, Tôn giả Vangìsa nói lên những câu kệ của mình.

Kinh Tiểu Bộ – Tập III – Trưởng Lão Tăng Kệ – Chương XXI – Phẩm Bảy Mươi Mốt Kệ

Bài viết liên quan

Mục lục KINH TIỂU BỘ tiếng Việt:

  1. Tổng quan Tiểu Bộ Kinh – Khuddaka Nikàya – Ðại Tạng Kinh
Kinh Pháp Cú
Kinh Phật Thuyết Như Vậy
Kinh Phật Tự Thuyết
Kinh Tập
  1. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga – 01 và 02. Kinh Rắn
  2. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .03. Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng
  3. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .04. Kinh Bhàradvàja, Người Cày Ruộng
  4. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .05. Kinh Cunda
  5. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .06. Kinh Bại Vong
  6. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .07. Kinh Kẻ Bần Tiện (Vasalasuttam)
  7. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .08. Kinh Từ Bi (Metta Sutta)
  8. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .09. Kinh Hemavata
  9. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .10. Kinh Alavaka
  10. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .11. Kinh Thắng Trận
  11. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .12. Kinh ẩn sĩ
  12. TB.T01.KT.C2.01. Kinh Châu Báu .Ratana Sutta)
  13. TB.T01.KT.C2.02. Kinh Hôi Thối .Amagandha)
  14. TB.T01.KT.C2.03. Kinh Xấu Hổ
  15. TB.T01.KT.C2.04. Kinh Ðiềm Lành Lớn .Kinh Ðại Hạnh Phúc (Mahamangala Sutta)
  16. TB.T01.KT.C2.05. Kinh Sùciloma
  17. TB.T01.KT.C2.06. Kinh Hành Chánh Pháp
  18. TB.T01.KT.C2.07. Kinh Pháp Bà-la-môn
  19. TB.T01.KT.C2.08. Kinh Chiếc Thuyền
  20. TB.T01.KT.C2.09. Thế Nào là Giới
  21. TB.T01.KT.C2.10. Kinh Ðứng Dậy
  22. TB.T01.KT.C2.11. Kinh Ràhula
  23. TB.T01.KT.C2.12. Kinh Vangìsa
  24. TB.T01.KT.C2.13. Kinh Chánh xuất gia
  25. TB.T01.KT.C2.14. Kinh Dhammika
  26. TB.T01.KT.C3.01. Kinh Xuất Gia
  27. TB.T01.KT.C3.02. Kinh Tinh Cần
  28. TB.T01.KT.C3.03. Kinh Khéo Thuyết
  29. TB.T01.KT.C3.04. Kinh Sundarika Bhàradvàja
  30. TB.T01.KT.C3.05. Kinh Màgha
  31. TB.T01.KT.C3.06-07. Kinh Sabhiya
  32. TB.T01.KT.C3.08-09. Kinh Mũi Tên
  33. TB.T01.KT.C3.10. Kinh Kokàliya
  34. TB.T01.KT.C3.11. Kinh Nàlaka
  35. TB.T01.KT.C3.12. Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán
  1. KTB.T01.KT.C4.01. Kinh về Dục
  2. KTB.T01.KT.C4.02. Kinh Hang Ðộng tám kệ
  3. KTB.T01.KT.C4.03. Kinh Sân Hận tám kệ
  4. KTB.T01.KT.C4.04. Kinh Thanh Tịnh tám kệ
  5. KTB.T01.KT.C4.05. Kinh Tối Thắng tám kệ
  6. KTB.T01.KT.C4.06. Kinh Già
  7. KTB.T01.KT.C4.07. Kinh Tissametteyya
  8. KTB.T01.KT.C4.08. Kinh Pasùra
  9. KTB.T01.KT.C4.09. Kinh Màgandiya
  10. KTB.T01.KT.C4.10. Kinh Trước khi bị hủy hoại
  11. KTB.T01.KT.C4.11. Kinh Tranh luận
  12. KTB.T01.KT.C4.12. Những vấn đề nhỏ bé
  13. KTB.T01.KT.C4.13. Những vấn đề to lớn
  14. KTB.T01.KT.C4.14. Kinh Tuvataka (Con đường mau chóng)
  15. KTB.T01.KT.C4.15. Kinh Chấp trượng
  16. KTB.T01.KT.C4.16. Kinh Sàriputta (Xá-lợi-phất)
  17. KTB.T01.KT.C5.01. Bài kệ mở đầu
  18. KTB.T01.KT.C5.02. Câu hỏi của thanh niên A-ji-ta
  19. KTB.T01.KT.C5.03. Các câu hỏi của thanh niên Tissametmeyya
  20. KTB.T01.KT.C5.04. Câu hỏi của thanh niên Punnaka
  21. KTB.T01.KT.C5.05. Câu hỏi của thanh niên Mettagu
  22. KTB.T01.KT.C5.06. Câu hỏi của thanh niên Dhotaka
  23. KTB.T01.KT.C5.07. Câu hỏi của thanh niên Upasiva
  24. KTB.T01.KT.C5.08. Các câu hỏi của thanh niên Nanda
  25. KTB.T01.KT.C5.09. Các câu hỏi của thanh niên Hemaka
  26. KTB.T01.KT.C5.10. Câu hỏi của thanh niên Todeyya
  27. KTB.T01.KT.C5.11. Câu hỏi của thanh niên Kappa
  28. KTB.T01.KT.C5.12. Câu hỏi của thanh niên Jatukanni
  29. KTB.T01.KT.C5.13. Câu hỏi của thanh niên Bhadràvudha
  30. KTB.T01.KT.C5.14. Câu hỏi của thanh niên Udaya
  31. KTB.T01.KT.C5.15. Câu hỏi của thanh niên Posàla
  32. KTB.T01.KT.C5.16. Câu hỏi của thanh niên Mogharàja
  33. KTB.T01.KT.C5.17. Câu hỏi của thanh niên Pingiya
  34. KTB.T01.KT.C5.18. Kết luận
Trưởng Lão Tăng Kệ
Trưởng Lão Ni Kệ
Chuyện Tiền Thân Đức Phật
  1. ​​​​​​​KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.01. PHẨM APANNAKA
  2. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.02. PHẨM GIỚI
  3. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.03. PHẨM KURUNGA
  4. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.04. PHẨM KULAVAKA
  5. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.05. PHẨM LỢI ÁI
  6. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.06. PHẨM ÀSIMSA
  7. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.07. PHẨM NỮ NHÂN
  8. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.08. PHẨM VARANA
  9. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.09. PHẨM APAYIMHA
  10. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.10. PHẨM LITTA
  11. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.11. PHẨM PAROSATA
  12. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.12. PHẨM HAMSA
  13. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 01. PHẨM KUSANÀLI
  14. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 02. PHẨM ASAMPADÀNA
  15. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 03. PHẨM KAKANTAKA
  16. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 04. PHẨM DALHA
  17. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 05. PHẨM SANTAHAVA
  18. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 06. PHẨM THIỆN PHÁP
  19. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 07. PHẨM ASADISA
  20. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 08. PHẨM RUHAKA
  21. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 09. PHẨM NATAMDAIHA
  22. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 10. PHẨM BIRANATTHAMBHAKA
  23. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 11. PHẨM KHÀSÀVA
  24. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 12. PHẨM UPÀHANA
  25. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 13. PHẨM SIGÀLA
  26. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C03.14. PHẨM SANKAPPA
  27. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C03.15. PHẨM KOSYA
  28. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 264-273)
  29. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 274-280)
  30. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 281-285)
  31. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 286-300)
  32. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 301-309)
  33. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 310-317)
  34. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 318-325)
  35. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 326-337)
  36. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 338-350)
  37. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C05. Phẩm Năm Bài Kệ (tt 351-358)
  38. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C05. Phẩm Năm Bài Kệ (tt 359-371)
  39. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 372-378)
  40. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 379-386)
  41. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 387-395)
  42. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C07. Phẩm bảy bài kệ
  43. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C07. Phẩm bảy bài kệ (tt 407 – 416)
  44. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C08. Phẩm Tám Bài Kệ
  45. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C08. Phẩm Tám Bài Kệ (tt 422 – 426)
  46. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C09. Phẩm Chín Bài Kệ
  47. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C09. Phẩm Chín Bài Kệ (tt 433 – 438)
  48. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C10. Phẩm Mười Bài Kệ
  49. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C10. Phẩm Mười Bài Kệ (tt 447- 454)
  50. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C11. Phẩm Mười Một Bài Kệ
  51. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C11. Phẩm Mười Một Bài Kệ (tt 460-463)
  52. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C12. Phẩm Mười Hai Bài Kệ
  53. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C12. Phẩm Mười Hai Bài Kệ (tt 468 – 473)
  54. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C13. Phẩm Mười ba bài kệ
  55. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C13. Phẩm Mười ba bài kệ (tiếp theo)
  56. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C14. Tạp phẩm
  57. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C14. Tạp phẩm (tiếp theo)
  58. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C15. Phẩm Hai Mươi Bài Kệ
  59. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C15. Phẩm Hai Mươi Bài Kệ (tiếp theo)
  60. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C16. Phẩm Ba mươi bài kệ
  61. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C16. Phẩm Ba mươi bài kệ (tiếp theo)
  62. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C17. Phẩm Bốn Mươi Bài Kệ
  63. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C18. Phẩm Năm Mươi Bài Kệ
  64. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C19. Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ
  65. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C20. Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
  66. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C21. Phẩm Tám Mươi Bài Kệ
  67. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C22. Đại Phẩm
  68. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (540)
  69. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (541)
  70. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (542)
  71. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (543)
  72. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (544)
  73. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (545)
  74. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (546)
  75. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (547)

Link xem nhanh các bộ kinh chính yếu trong Tam Tạng Thánh Ðiển:

(Xem chi tiết sơ đồ)

A. TẠNG LUẬT (VINAYAPIṬAKA)

  1. Phân tích giới
  2. Đại phẩm
  3. Tiểu phẩm
  4. Tập yếu

B. TẠNG KINH (SUTTANTAPIṬAKA)

  1. Trường bộ
  2. Trung bộ
  3. Tương ưng bộ
  4. Tăng chi bộ
  5. Tiểu bộ

C. TẠNG VÔ TỶ PHÁP (ABHIDHAMMAPIṬAKA)

  1. Pháp tụ
  2. Phân tích
  3. Chất ngữ
  4. Nhân chế định
  5. Biện giải
  6. Song đối
  7. Vị trí
Print
Email
Facebook
Twitter
LinkedIn
Skype
Telegram
Pocket
WhatsApp

Bạn đang xem bài viết: Kinh Tiểu Bộ – Tập III – Trưởng Lão Tăng Kệ – Chương XXI – Phẩm Bảy Mươi Mốt Kệ