Ý nghĩa sướng khổ và Niết Bàn nhìn theo quan điểm Phật giáo
Hòa Thượng Thích Nhất Chân
Ðức Phật nói không nên định nghĩa về Niết Bàn. Niết Bàn là để chứng, chứ không phải để hiểu, định nghĩa thế nào đi nữa cũng không đúng và sẽ đem lại sự hiểu lầm. Tuy nhiên như thế, nhưng rõ ràng tối thiểu Niết Bàn vẫn có 1 định nghĩa, đó là “diệt”. Ðức Phật thường diễn tả Niết Bàn qua thí dụ về lửa củi : Lửa từ củi bắt cháy, khi củi cháy hết, thì lửa tắt “diệt”. Chúng ta không nên hỏi ngọn lửa ấy ra sao, đi về đâu, sau khi củi tiêu hết. Ngọn lửa ấy tận diệt hoàn toàn, không còn chút dư sót lại, nó “tịch diệt”. Mặt khác, Niết Bàn thường được coi như là sự “giải thoát” khỏi tất cả mọi khổ đau, đồng thời cũng là một sự an lạc cứu cánh vĩnh viễn, thế nên “giải thoát” và “an lạc” cũng là hai ý nghĩa chính yếu nữa của Niết Bàn. Trong ba ý nghĩa này, “tịch diệt” vẫn là ý nghĩa lạ lùng khó hiểu hơn hết. Tại sao tịch diệt lại là an lạc, lại là giải thoát ? Ðể giải tỏa nghi vấn này, chúng ta cần phải hiểu rõ cho tận cùng hết về mọi ý nghĩa sướng và khổ, từ trong thế giới vật chất lên cho đến thế giới tâm linh. Dưới đây là các nhận định sơ lược cốt gợi ý cho chúng ta tìm hiểu vào sâu hơn nữa.
1. Bản chất hay ý nghĩa của sự sống hữu tình là tìm sướng tránh khổ
Bản chất của hữu tình nói chung, và của con người nói riêng, luôn luôn là tìm đủ mọi cách để đạt được sự sung sướng như ý, và tránh đi tất cả những gì khó chịu không như ý. Ai cũng sợ khổ đau, cũng sợ mọi thứ khuấy động não phiền, ai cũng sợ bệnh, sợ già và sợ chết. Và ai cũng ham muốn được sung sướng, được an lành, muốn khỏe mạnh, giầu sang phú quý, muốn danh vọng quyền thế, và muốn mãi mãi được thụ hưởng. Sự phát triển không ngừng của đời sống, sự không ngớt tìm tòi và hoạt động không ngơi của con người, là để làm gì vậy ? Rõ ràng là để nâng cao đời sống lên. Và nâng cao chỉ có nghĩa là làm sao cho sống sướng ra và bớt khổ đi, an lạc ra và bớt lo âu sợ hãi đi. Ngay cho đến các tội ác hay chiến tranh thật sự cũng chỉ là để đạt được sự sung sướng cho chính mình, hay để dẹp trừ đi một mối đe dọa âu lo nào đó. Con người tạo ra đủ thứ, kể cả thiện lẫn ác, giúp người hay hại người gì đi nữa, thì cũng chỉ là để đạt được sự thỏa mãn cho các ý muốn của chính mình, và khi ý muốn được thỏa mãn, con người cảm thấy sung sướng. Ngay cho đến một cử động nhỏ thôi của cơ thể hay của tâm ý cũng là để tránh cái khổ tìm cái sướng, như khi ngồi lâu tê chân khó chịu, chúng ta động đậy duỗi chân ra để được thoải mái hơn, khi tâm trí làm việc nhiều đâm căng thẳng, chúng ta phải tác ý đến một việc gì khác như giải trí vậy, để tâm thức được thoải mái hơn. Tóm lại, hữu tình có nghĩa là “sống”, và sống có nghĩa là một hoạt động tránh khổ để được sướng.
2. Ý nghĩa sướng của hữu tình
Sướng hay khổ đều là các cảm giác, Phật pháp gọi là “thọ”. Theo Phật pháp thời thọ này thường được phân làm ba loại, và nếu phân theo thân và tâm, thì sẽ thành đến sáu loại. Ba loại thuộc thân là khổ, sướng (lạc), và không khổ không sướng. Ba loại thuộc tâm là lo âu (ưu), mừng vui (hỉ), và không lo không mừng. Bản chất tự nhiên của cảm thọ vốn là loại không khổ không sướng. Như Câu Xá Luận giải thích, tác dụng tự nhiên của nó chỉ là “lãnh nạp”, có nghĩa là “thâu nhận vào” : Thọ là ngưỡng cửa đầu tiên để thâu nhận các cảnh bên ngoài vào trong tâm thức. Nơi giai đoạn này thọ chỉ thâu nhận chứ không biết gì là sướng hay khổ. Vậy thì do đâu mà thọ ấy lại trở thành sướng hay khổ ? Phật pháp phân tâm thức thành ra bốn lãnh vực là thọ, tưởng, hành, và thức. Trong đó thọ, tưởng chỉ là công cụ chuyển đem đối tượng ngoại cảnh vào trong tâm thức. Thức chỉ là chủ tể để nhận biết đối tượng ấy. Ngoài các công năng ấy ra, thọ, tưởng và thức hoàn toàn thụ động đối với đối tượng. Ðối tượng ấy ra sao ? Ðáng ghét hay đáng thương, dễ ưa hay đáng sợ …v…v… đều là do công năng “tạo tác” của hành. Thọ trở thành sướng hay khổ thật sự đều do công năng của hành mà ra.
Hành này là gì ? Tất cả mọi hoạt động của tâm thức, mọi “thái độ” của tâm thức, đối với các cảnh đối tượng, trừ thọ, tưởng và thức ra, đều được gọi chung là hành. Có thể nói hành là hoạt động tạo tác của tâm thức. Nó đưa ra danh từ tên gọi và đem lại ý nghĩa cho tất cả mọi vật, nó khởi lên thái độ phán xét và thẩm định của tâm thức đối với tất cả mọi giá trị, phẩm tính của vạn vật, nó khơi động lên các hoạt động của tâm ý và của thân khẩu. Nó là năng lực của tâm thức, là năng lực chủ động của sự sống. Nó còn thường được Phật pháp gọi là “tư”, nghĩa thông thường là “ý muốn”.
Do ý muốn phát sinh mà sướng mới được thành lập. Tại sao vậy ? Bởi bao giờ cũng vậy, tâm thức chỉ hoạt động, hay nói đúng hơn chỉ phát lực hoạt động, là khi nào nó thấy khao khát, thấy ham muốn một đối tượng đáng ham muốn nào đó. Lúc ấy nó khởi lên một “ý muốn” sở hữu hay sở đắc đối tượng ấy. Và khi nó đạt được đối tượng ấy rồi, tâm thức cảm thấy thỏa mãn, có nghĩa là một cảm giác “hài lòng, mãn nguyện” phát sinh. Cảm giác hài lòng, mãn nguyện này chính là ý nghĩa sung sướng, hạnh phúc của tất cả mọi loài hữu tình. Nếu tâm thức không có một ý muốn gì hết, không có một mong mỏi, ước ao gì hết, thì tuy nó vẫn có một cảm giác “tối thiểu” là không khổ không sướng, song tâm thức ấy sẽ bị chúng ta coi như là không còn cảm giác gì nữa, chỉ là bởi vì nó không tạo nên được một cảm trạng buồn vui, sướng khổ gì cả. Ðiều đó chứng tỏ “ý muốn” làm nên sự sung sướng.
3. Ý nghĩa khổ của hữu tình
Một điều nữa mà làm cho chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa này, đó là một khi ý muốn không thành, tâm thức cảm thấy thất vọng, sầu não, nghĩa là nó thấy “khổ”. Khi định nghĩa về khổ, Phật pháp thường đưa ra bốn nghĩa như “thương nhau mà phải xa nhau”, “ghét nhau mà phải gần nhau”, “cầu mong mà không thành tựu” (cầu bất đắc khổ), và “phải chịu cưu mang một thân tâm sống động” (ngũ ấm xí thịnh khổ). Hai ý nghĩa đầu, trên căn bản, không khác gì với ý nghĩa thứ ba. Bởi khi thương nhau người ta luôn cầu mong được ở gần nhau, nay phải xa nhau tức cầu mong không thành tựu, thế nên cảm thấy khổ. Ghét nhau cũng thế, đã ghét thì “muốn” là đừng gặp gỡ nhau, nay phải chịu chung đụng, nghĩa là điều mong muốn xa cách không thành, thế nên cảm thấy khổ. Ngay cả ý nghĩa thứ tư đi nữa cũng không ra ngoài ý nghĩa “cầu bất đắc khổ”. Tại sao vậy ? Tất cả các sự thể mà tâm thức sợ hãi không ưa muốn như già, bệnh, chết, phiền não, âu lo v.v… đều từ thân tâm này mà ra. Tâm thức mong muốn trẻ mãi, không bệnh, không chết, không âu lo, không phiền não, song một khi đã mang lấy một thân tâm như thế, là chắc chắn các mong muốn kia sẽ không bao giờ thành tựu được, thế nên có thân có tâm tức là có khổ rồi. Ngay cả các nghĩa khổ khác như “chuyển biến” (hành khổ), “tiêu tán hoại mất” (hoại khổ), cũng đều là do chúng đi ngược lại với ý muốn thường có mãi, vĩnh viễn. Tóm lại, tất cả mọi ý nghĩa của khổ đều dựa vào chỗ “không toại ý”, “không mãn nguyện” mà lập nên. Nên ngược lại, điều ấy chứng tỏ rằng toại ý, mãn nguyện, là sướng.
4. Ðạo đức, một chiều sâu hơn nữa của ý nghĩa sướng khổ
Mong muốn, khao khát, ước ao …v…v… như thế chính là đầu mối của cả sướng lẫn khổ. Và hữu tình sống là để đạt được sung sướng, nghĩa là để được như ý, được mãn nguyện. Và vì sống là để đạt được như ý muốn, nên sống cũng có nghĩa là bằng mọi cách phải tránh đi những gì không như ý, tức phải tránh khổ cho bằng được. Nhận xét sâu hơn nữa chúng ta sẽ thấy rằng ý muốn là một hoạt động của tâm thức, muốn luôn luôn là muốn một cái, một điều gì đó, và tìm cách liên hệ với đối tượng mong muốn kia qua hai cách hoạt động hoặc làm lợi hoặc làm hại cho chính đối tượng ấy. Thí dụ như chúng ta muốn bố thí, là muốn thân mình hoạt động đưa tiền của ra, và là muốn bố thí cho một người nghèo, và là muốn làm lợi ích cho người đó. Hoặc như chúng ta muốn sát sinh, là muốn thân mình hoạt động ra tay giết, và là muốn giết ai đó, và là muốn làm hại mạng người đó. Ðến đây chúng ta nhận rõ ra được ý nghĩa sướng khổ của thế gian dựa trên ý muốn như sau : Như do muốn bố thí, nếu bố thí thành đạt, ý muốn thấy toại nguyện và sung sướng. Muốn giết người cũng thế, nếu giết được, ý muốn toại nguyện, chúng ta thấy sung sướng. Bằng ngược lại, thí không xong, giết không thành, chúng ta thấy thất vọng, khó chịu và bực tức, chúng ta thấy khổ.
Qua các ý nghĩa và các thí dụ trên, chúng ta thấy ngay là có điều gì bất ổn trong ý nghĩa sướng khổ này của thế gian. Nếu sướng chỉ là thỏa mãn ý muốn, thời sướng không chắc gì là lý tưởng chút nào, và còn là rất nguy hiểm nữa. Bởi người ta có thể làm ác để được thỏa mãn một ý muốn, cho dù đó là một ý muốn tốt, cũng như người ta có thể có những ý muốn rất ác khiến người ta sẵn sàng làm ác để được thỏa mãn. Mà một khi đã làm ác, thì dù lúc đó có được mãn nguyện đi nữa, nhưng rồi sau đó lại phải chịu hậu quả của việc làm ác này, như muốn giết người mà giết được thì rất thỏa mãn sung sướng, song sau đó lại phải chịu tù ti biết bao là khổ sở. Và vì ý muốn luôn luôn là muốn được sướng và tránh đi khổ, thế nên ý muốn được sướng và thoát khổ này sẽ thúc đẩy tâm thức suy xét, liệu lường cho kỹ lưỡng, không phải cứ muốn gì là làm nấy, và đôi khi dù muốn mà vẫn phải cưỡng chế lại ý muốn của chính mình. Dĩ nhiên khi cưỡng chế ý muốn như thế, chúng ta cảm thấy khổ sở và khó chịu, song để tránh cái khổ phải chịu sau đó còn nặng nề hơn, nên chúng ta đành phải chịu cái khổ không như ý trong hiện tại này.
Ðạo đức với ý nghĩa tiêu cực : tránh khổ.
Chính từ đó mà nhẫn nại, chịu đựng, cũng như đạo đức thế gian được phát sinh. Cho dù thế, ý nghĩa của sướng khổ vẫn không có gì thay đổi, vẫn là được như ý muốn là sướng, không như ý muốn là khổ, chỉ có điều là nếu tính chất của ý muốn là xấu hay ác, thì có được thỏa mãn như ý đi nữa, cái sướng này vẫn là một cái sướng chất chứa đầy âu lo và sợ hãi, do đó nó không còn đúng nghĩa gì là sướng nữa, nếu không nói là hoàn toàn khổ. Vì thế, để tránh được khổ và đạt được sướng, ý muốn của chúng ta cần phải có tính chất thiện và tốt. Ðạo đức và luân lý thế gian nhằm dạy dỗ cho chúng ta về vấn đề này. Lại nữa dù có ý muốn tốt rồi, chúng ta cũng không được làm ác để thỏa mãn ý muốn tốt này, như vì muốn bố thí mà chúng ta đi ăn cắp …v…v…, đạo đức và luân lý thế gian cũng đều không cho phép như vậy.
Ðến đây, chúng ta thấy rõ là ý muốn của chúng ta bị đạo đức và luân lý xen vào. Ðôi khi suốt một cuộc sống, chúng ta luôn luôn phải thúc ép và kềm chế mọi ý muốn của mình theo “giáo lệnh” của đạo đức và luân lý, trọn đời ý muốn của chúng ta không bao giờ được toại nguyện. Cả đời không được toại nguyện thì không phải là cả đời khổ đau, thì còn là gì nữa ? Nhất là khi đạo đức và luân lý trở thành truyền thống “cấm chế” khắt khe, và thành giáo điều độc đoán đè nặng mãi trên “ý muốn” của con người. Sống là năng lực của ý muốn, sung sướng là ý muốn được thỏa mãn. Nay lực sống ấy và sự sung sướng ấy hoàn toàn bị kềm kẹp bởi truyền thống đạo đức luân lý kia, mà để làm gì vậy ? Ðôi khi cũng không ai biết trả lời là tại sao nữa, và điều này đưa lại sự bất mãn và phản kháng của ý muốn, của lực sống của hữu tình.
Thật ra luân lý và đạo đức không hề có tính cách đc đoán hay áp chế dã man phi lý, mà như trên đã cho thấy, luân lý đạo đức nhằm “tránh khổ” cho con người. Quả thật luân lý đạo đức không hề nhằm thỏa mãn ý muốn, mà ngược lại còn là những quy tắc chuyên kiểm soát ý muốn và việc làm của ý muốn. Chúng không đưa lại sự sung sướng một cách tích cực là làm thỏa mãn ý muốn, song chúng hoàn toàn tích cực trên mặt tránh khổ đau. Bởi ý muốn của con người phần nhiều là không tốt đẹp, nó dễ nông nổi tạo nên các hành động xấu, điều này đưa lại các kết quả khổ đau sau đó, để tránh các khổ đau này, nên luân lý đạo đức được áp dụng. Vì thế đúng hơn, con người nên tự trách lấy ý muốn xấu của mình chứ không nên chống đối lại luân lý và đạo đức.
Tuy nhiên, một vấn đề khác vô cùng tế nhị và hết sức nan giải, đó là chính chúng ta thường xử dụng luân lý đạo đức như là một truyền thống độc đoán để áp đặt ý muốn của mình lên trên người khác, như trường hợp cha mẹ muốn con cái làm theo ý muốn mình, thì thường hay xử dụng đến cái đạo đức “có hiếu” để ép buộc con cái phải vâng lời. Thật ra luân lý đạo đức là các nguyên tắc làm “đẹp” tinh thần, mục đích là giúp cho người ta tránh khổ hay để bảo vệ cho người ta thoát khổ, nó để cho cá nhân áp dụng, chứ không phải là một công cụ làm “khó dễ” người khác. Nhưng bản chất của con người vốn đầy tình cảm thương ghét, đầy phân biệt phải trái, đúng sai, lại với bản ngã ích kỷ cứng cỏi, nên con người không bao giờ áp dụng luân lý đạo đức cho đúng tinh thần của chúng, mà trái lại luân lý đạo đức thường vẫn bị lạm dụng để con người làm khổ lẫn nhau. Nơi đâu có thù ghét nhau là nơi đó có luân lý đạo đức được xử dụng để bôi lọ tàn hại nhau. Luân lý đạo đức trở thành một công cụ độc ác nguy hiểm. Ðiều này hoàn toàn lệch lạc.
Ðạo đức với ý nghĩa tích cực : hưởng sướng.
Nhận xét cho đúng lại, chúng ta thấy rõ đạo đức luân lý là một phương tiện tránh khổ “tận gốc”. Bởi gốc của khổ đau, nhìn theo đạo đức, không phải là không được toại ý nữa, mà là các ý muốn xấu ác. Và dần dà đạo đức và luân lý trở thành các “kỷ luật” kềm chế các ý muốn và hành động xấu ác này, ai tuân giữ các kỷ luật ấy, người ấy là người tốt, người đạo đức và được mọi người khác ngợi khen. Ðạo đức và luân lý đưa lại một sự thụ hưởng “danh thơm” cao quý như thế, để đền bù lại cho những “khổ đau” khi phải kềm chế các ý muốn của mình. Do đó, tuy trên phương diện ý nghĩa, đạo đức và luân lý không có nghĩa sướng một cách tích cực như là thỏa mãn các ý muốn, mà chỉ có nghĩa tiêu cực là tránh khổ mà thôi. Song bản chất của con người vẫn là đi tìm sung sướng hạnh phúc một cách tích cực qua sự thỏa mãn ý muốn, thế nên các nhà đạo đức đều lấy sự kềm chế các ý muốn xấu ác làm ý muốn của chính mình, lấy sự duy trì đạo đức và luân lý làm ý muốn của chính mình. Nên một khi thực hành được các điều đạo đức ấy, duy trì được các giềng mối luân lý ấy, các nhà đạo đức đều cảm thấy thỏa mãn “tâm nguyện” của mình, và đều được thụ hưởng sự sung sướng một cách tích cực. Chung cục lại, đạo đức luân lý vẫn chỉ là để tránh khổ được sướng bằng cách làm sao cho thỏa mãn được ý muốn đạo đức của chính mình…
https://66.254.41.11/HieuGiang/TinhSach/ThichNhatChan/YNghiaSuongKhoVaNietBanNhinTheoQuanDiemPhatGiao.php