Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tiểu Bộ Kinh – Tập II


Khuddaka Nikàya

Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt

2.2 Chuyện Ngạ Quỷ

Phẩm IV.a

-ooOoo-

Ðại Phẩm

  1. (36) Chuyện Vua Ambasakkhara (Ambasakkhara)

Trong lúc đức Thế Tôn đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên) một vị vua dòng họ Licchavimệnh danh Ambasakkhara, là một người không mộ đạo, có tà kiến, đang trị vì ở Vesàli(Tỳ-xá-ly).

Tại đó lại có một thương nhân chánh trực đã bắc cầu bằng những thanh gỗ chiên-đàn qua một đầm lầy. Trái lại, cháu trai vị ấy đã lấy trộm hàng hóa đem đến tiệm của chú, nên bị xử hình phạt đóng thân vào cọc. Người chú bị chặt đầu và hóa thành một địa thần cỡi ngựa thuần bạch, vào nửa đêm lại đến thăm cháu đang bị đóng cọc và bảo: ‘Hãy cố sống thì hơn’.

Bấy giờ vua Ambasakkhara muốn chiếm vợ của một thần dân, liền sai người ấy đi lấy đất đỏ và hoa súng đỏ ở một hồ sen cách xa kinh thành ba do-tuần, và buộc y phải trở về trước khi trời tối nếu không sẽ bị giết. Ðồng thời vua ra lệnh đóng cổng thành trước khi trời tối. Nhờ chư thần giúp đỡ, người kia đem đất đỏ và hoa súng đỏ về kịp trước khi trời tối, nhưng gọi cổng thành không được, y phải nhờ sự làm chứng của vị quỷ thần ấy. Sau đó vua đích thân đi gặp vị quỷ thần để tìm hiểu sự việc. (Bổ sung Tập Sớ).

Các vần kệ này kể lại chuyện trên. Vần kệ đầu do các vị kết tập Kinh điển đưa vào:

  1. Kinh thành dân chúng xứ Vaj-ji,
    Tên gọi là thành Tỳ-xá-ly,
    Tại đó có vì vua ngự trị,
    Am-ba-sa, tộc Lic-cha-vi,
    Khi nhìn thấy quỷ ngoài thành ấy,
    Vua muốn biết, nên hỏi tức thì:
  2. ‘Kẻ này không có chỗ nằm ngồi,
    Cùng chẳng hề đi tới, bước lui,
    Không thức uống ăn, quần áo mặc,
    Cũng không tỳ nữ, một mình thôi.
  3. Quyến thuộc thân bằng thuở đã qua
    Có lòng thương xót nó bây giờ,
    Song không có khả năng nhìn nó,
    Họ đã bỏ rơi nó thật mà.
  4. Kẻ nào sa sút chẳng thân bằng,
    Bạn bỏ rơi khi thấy khốn cùng,
    Hễ thấy phồn vinh, vây lấy bạn,
    Người đang hưng thịnh, lắm thân nhân.
  5. Khi hưởng thụ xong hết bạc vàng,
    Gia tài chắc đã phải tan hoang,
    Thân hình vấy máu đang rời rã
    Như hạt sương treo, đến số tàn.
  6. Với người đang chịu cảnh đau thương,
    Khủng khiếp trên cây cọc gỗ mun,
    Vua hỏi: ‘Quỷ kia, sao lại nói:
    Ngươi cần phải sống, sống thì hơn?’

Quỷ thần:

  1. Người này trên cọc chính thân nhân,
    Tôi nhớ kiếp xưa ở cõi trần,
    Nên đã xót thương khi thấy nó
    Phải vào địa ngục bởi tà tâm.
  2.  Lic-cha-vi chúa thượng, từ đây
    Kẻ đã tạo ra ác nghiệp này
    Vào ngục tái sanh đầy khủng khiếp,
    Nóng bừng, gay gắt, hãi kinh thay.
  3. Ngay cái cọc kia đủ mọi phần,
    Tốt hơn địa ngục biết bao lần,
    Ước mong nó chẳng sa vào ngục
    Gay gắt, kinh hoàng, thật khổ thân.
  4. Nếu kẻ ấy nghe tôi nói vầy,
    Nó đầy sầu khổ, tắt hơi ngay,
    Cho nên trước nó tôi không nói,
    E chỉ vì tôi nó bỏ thây.

Quân vương:

  1. Vụ án người này ta biết qua,
    Song ta muốn hỏi chuyện thêm mà;
    Nếu ngươi cho phép, ta xin hỏi,
    Song chớ giận hờn với chúng ta.

Quỷ thần:

  1. Việc ấy tôi xin hứa thật lời,
    Chuyện này không kể với người đời
    Không có tín tâm vào Ðạo pháp,
    Dù tôi không muốn, hãy tin tôi;
    Hỏi ngay những việc gì ngài muốn,
    Tôi sẽ đáp tùy sức đó thôi.

Quân vương:

  1. Những gì ta thấy tận mắt ta,
    Ước mong ta đủ tín tâm mà,
    Nếu không tin dẫu khi ta thấy,
    Ấy việc riêng ta, hỡi Dạ-xoa!

Quỷ thần:

  1. Tôi đã được ngài hứa thủy chung,
    Khi ngài nghe pháp hãy thành tâm,
    Ði tìm tri kiến cao hơn nữa,
    Với trí chẳng ô nhiễm, sáng trong.
    Những pháp ngài chưa nghe hoặc đã,
    Tôi đều muốn nói hết cho thông
    .

Quân vương:

  1. Trên ngựa trang hoàng, ngươi đến đây
    Tìm người bị đóng cọc phanh thây,
    Ðây là phong cách ngươi đi lại,
    Kỳ diệu và cao quý hiển bày.
    Do bởi nghiệp nào xưa đã tạo
    Mà nay được phước báo như vầy?

Quỷ thần:

  1. Chính giữa kinh thành Tỳ-xá-ly,
    Xuyên qua đầm ở khoảng đường đi,
    Có nơi nọ cực kỳ nguy hiểm,
    Với dạ tín thành, một bữa kia,
    Tôi lấy gỗ chiên-đàn trắng bạch
    Bắc qua chỗ ấy có nề chi.
  2. Sau đó chúng tôi đặt bước chân,
    Chúng tôi và những kẻ qua đường,
    Ðây là phương tiện rất kỳ diệu,
    Xứng đáng được chiêm ngưỡng giữa trần,
    Do chính nghiệp ngày xưa đã tạo,
    Giờ đây đem phước báo cho thân.

Quân vương:

  1. Hình dáng ngươi soi sáng mọi phương,
    Khắp nơi đều phảng phất mùi hương.
    Nhà ngươi có cả thần thông lực
    Của một Dạ-xoa lực dị thường.
    Nhưng việc gì xưa đem kết quả
    Nhà ngươi nay phải chịu trần truồng?

Quỷ thần:

  1. Luôn giữ tín tâm thoát hận sân,
    Nói lời từ tốn với tha nhân
    Việc xưa kia đã đem thành quả
    Hình dáng thần tiên mãi sáng bừng.
  2. Khi tôi lưu ý đến thanh danh
    Của những người an trú Pháp hành,
    Tôi trịnh trọng trình bày việc ấy,
    Việc xưa đem kết quả cho mình:
    Mùi hương tiên giới trên thân thể
    Liên tục thoảng đưa thật dịu lành.
  3. Khi các bạn tôi tắm bến sông,
    Tôi đem quần áo giấu quanh vùng,
    Tôi không ác ý, thích đùa giỡn,
    Nay chịu trần truồng thật khổ thân.

Quân vương:

  1. Nếu ai làm ác để đùa nhau,
    Người bảo đây là quả kiếp sau;
    Song nếu ai làm không bỡn cợt,
    Thì người bảo kết quả nào đâu?

Quỷ thần:

  1. Bất cứ ai làm ác cố tâm
    Ngôn từ, hành động quá buông lung,
    Phải vào địa ngục sâu tăm tối,
    Chắc chắn khi thân hoại mạng chung.
  2. Kẻ nào mong thế giới quang vinh,
    Tìm thích thú trong các thiện hành,
    Bố thí, bản thân luôn chế ngự,
    Mạng chung vào thế giới thanh minh.

Khi quỷ thần đã phân tích sơ lược các nghiệp quả, nhà vua không tin, bèn ngâm kệ:

  1. Tại sao ta phải tin điều này
    Là quả thiện hành, ác nghiệp đây?
    Việc đã thấy ta cần tín ngưỡng?
    Người nào thuyết phục được ta vầy?

Quỷ thần:

  1. Khi ngài đã mắt thấy tai nghe,
    Ngài hãy tin vào nghiệp quả kia,
    Nếu thiện ác đều không hiện hữu,
    Sao người hạnh phúc, kẻ ê chề?
  2. Nếu chúng sanh không tạo thiện hành,
    Và gây ác nghiệp giữa nhân sanh,
    Thì nhân quần, dẫu cao hay thấp,
    Chẳng có tai ương, hoặc phước lành.
  3.  Nhưng bởi chúng sanh tạo thiện hành,
    Và gây ác nghiệp giữa nhân sanh,
    Nên nhân quần, dẫu cao hay thấp,
    Ðều gặp tai ương hoặc phước lành.
  4. Có hai loại nghiệp báo trên đời,
    Ta phải hiểu ngay: Một hạng người
    Ðược hạnh phúc, và người chịu khổ.
    Chư Thiên hưởng lạc thú trên trời,
    Song người ngu bị nhiều hành hạ
    Khi thấy quả hai mặt chín muồi

    .

Khi được nhà vua hỏi:

– Như vầy ngươi đã tin vào nghiệp quả, tại sao ngươi lại phải chịu cảnh khốn khổ này?

Quỷ thần đáp:

  1. Không ai làm việc thiện vì tôi,
    Hồi hướng về tôi, chẳng có người,
    Dâng cúng áo, giường, đồ ẩm thực,
    Nên tôi trần trụi, khổ trên đời!

Khi nghe quỷ thần ước muốn nhận đủ áo quần và nhiều vật dụng khác, nhà vua bảo:

  1. Quả thật giờ đây có cách nào
    Nhà ngươi được áo mặc hay sao?
    Nói cho ta biết về nguồn gốc,
    Ta sẽ nghe lời tín nhiệm mau.

Quỷ thần đáp:

  1. Có vị Tỷ-kheo ở tại đây
    Kap-pi-ta ấy chính danh này,
    Ngài chuyên Thiền định, và cao đạo,
    Giải thoát, điều thân, ứng cúng thay.
    Sống chế ngự mình bằng giới luật,
    An nhiên, đạt trí tối cao vầy.
  2. Ngài vốn nói năng thật dịu hiền,
    Ôn tồn, nhỏ nhẹ, giọng êm đềm,
    Ðón chào niềm nở đầy chân thật,
    An tịnh trú trong giới luật nghiêm,
    Xứng đáng cúng dường nhiều lễ vật
    Từ loài người đến cả chư Thiên.
  3.  Thanh thản đoạn trừ lưới ác tâm,
    Chánh chân, vô ngã, lại ly tham,
    Ngài không có ước mong gì nữa,
    Chẳng có sanh y ở thế gian,
    Nên ngài giải thoát, tâm an tịnh,
    Tam minh chứng đắc thật vinh quang.
  4.  Mặc dù quần chúng thấy hình ngài,
    Ngài chẳng tiếng tăm, quen biết ai;
    Dân chúng Bạt-kỳ thường vẫn gọi
    Ngài là bậc trí tuệ cao vời.
    Thiên thần biết rõ ngài ly dục,
    Người có tín tâm sống ở đời.
  5. Nếu chúa thượng dâng lễ cúng ngài
    Và đem công đức hướng về tôi,
    Một, hai bộ áo do ngài nhận
    Cũng đủ cho tôi có mặc rồi.

Quân vương:

  1. Bậc ẩn sĩ kia đang ở đâu?
    Chúng ta yết kiến ở phương nào?
    Hôm nay ngài đánh tan nghi hoặc,
    Tà kiến giăng đầy tự bấy lâu.

Quỷ thần:

  1. Ở Kap-pi-na, ngài tọa thiền,
    Ðược bao quanh bởi các thần tiên,
    Ngài đang thuyết pháp, ly sân hận,
    Chân chánh như danh tiếng đã truyền.

Quân vương:

  1. Ta đi làm việc ấy giờ đây,
    Ta sẽ dâng y ẩn sĩ này
    Khi bộ y kia ngài đã nhận,
    Thì ngươi sẽ có áo quần ngay.

Rồi cả hai cùng đi đến chỗ ấy và quỷ thần nói:

  1. Với người xuất thế, bản thân tôi
    Không yết kiến khi chẳng đúng thời.
    Chúa thượng, giờ đây không thích hợp.
    Ðúng thời, hãy viếng chỗ ngài ngồi
    .

Các vần kệ sau do chư vị kết tập Kinh điển ghi:

  1. Khi quỷ thần vừa nói vậy xong,
    Nhà vua được cả đám tùy tùng
    Ðưa về lại chốn kinh thành ấy,
    Tư thất của vua ở hậu cung.
  2. Từ đó, thực hành giới tại gia,
    Nhà vua tắm gội, chọn từ nhà
    Xiêm y tám bộ và đi cúng,
    Ðược đám tùy tùng hộ tống ra.
  3. Khi nhà vua đến tận nơi này,
    Thấy ẩn sĩ tâm thanh tịnh đầy
    Ðã trở về sau thời khất thực,
    An nhiên, tĩnh tọa dưới gốc cây.
  4.  Ðúng lúc vua đi yết kiến ngài,
    Vấn an sức khoẻ, sống an vui;
    ‘Lic-cha-vi ấy là thân tộc,
    Tỳ-xá-ly thành, đất nước tôi,
    Tôi chính Am-ba-sa, tộc trưởng,
    Mong ngài hoan hỷ, kính thăm ngài.
  5.  Tôn giả, xin ngài hãy nhận ngay
    Tám y tốt đẹp cúng dâng này,
    Ðể tôi có thể đầy an lạc,
    Vì mục đích này tôi đến đây.

Ẩn sĩ:

  1. Sa-môn ẩn sĩ, dẫu từ xa,
    Ðều phải tránh cung điện của vua,
    Nơi đó, bao nhiêu bình bát vỡ,
    Thầy tu bị xé áo cà-sa!
  2. Nhiều người khác đấm đá kinh sao,
    Như búa, Tỷ-kheo phải ngã nhào,
    Ẩn sĩ xuất gia mang tổn hại,
    Chính tay ngài đã biết là bao!
  3.  – 49. Dầu mè, đệm cỏ chẳng hề ban,
    Chẳng chỉ dùm ai lạc bước đàng
    Từ một người mù, ngài lấy gậy
    Ngài vừa phóng dật, lại xan tham;
    Bây giờ vì lý do nào vậy,
    Bằng cách nào ngài muốn phát ban?

Quân vương:

  1. Tôn giả, tôi công nhận thật ngôn,
    Tôi làm thương tổn các Sa-môn,
    Tôi mong đùa giỡn, không tà ý,
    Việc phạm lỗi xưa thật bạo tàn.
  2. Kẻ kia làm ác để bông lơn,
    Hạnh phúc nó không được vẹn toàn,
    Nó nhận khổ đau, dầu trẻ tuổi,
    Số phần nó phải chịu trần truồng,
    Còn gì khốn đốn hơn cho nó
    Chính việc này đây có phải không?
  3.  Tôi thấy nó mang nặng lỗi lầm,
    Nên tôi dâng lễ vật, Tôn nhân,
    Xin ngài nhận tám y tôi cúng
    Hồi hướng về cho vị quỷ thần.

Ẩn sĩ:

  1. Bố thí, dĩ nhiên được nhận mà,
    Ước công vô lượng với nhà vua,
    Nay tôi nhận tám y ngài tặng,
    Mong lễ vật hồi hướng Dạ-xoa.
  2.  Rồi vua nhấp nước tự bàn tay
    Ðể tẩy trần và dâng cúng ngay
    Tám bộ y lên ngài Trưởng lão:
    ‘Ước mong y được nhận như vầy!
    Và hãy nhìn xem thần đại lực
    Mặc nhiều quần áo thỏa lòng thay!
  3.  Tức thì vua thấy chính thần nhân
    Tẩm ướt dầu tinh chất gỗ trầm,
    Hình dáng cao sang, dòng quý tộc,
    Cỡi trên lưng tuấn mã oai hùng,
    Ðiểm trang y phục huy hoàng quá,
    Ðược hộ tống và đạt lực thần.
  4. Với niềm vui sướng, dạ hân hoan,
    Khuôn mặt vui tươi, hạnh phúc tràn,
    Vì thấy nghiệp mình đem quả lớn,
    Vua vừa nhìn tận mắt hoàn toàn.
  5.  Vua bước lên và nói với thần:
    ‘Từ nay ta cúng các Sa-môn,
    Ta không có vật gì không cúng,
    Ðại quỷ, ngài là bậc cứu nhân’

    .

Quỷ thần:

  1. Chúa thượng cho tôi hưởng phước ân
    Cúng dường đâu có phải hoài công,
    Phần tôi sẽ tạo tình bằng hữu
    Giữa một phi nhân với thế nhân.

Quân vương:

  1. Ngài là quyến thuộc lẫn thân bằng,
    Chánh đạo, nơi nương tựa, hộ thần!
    Ta khẩn cầu ngài và đảnh lễ,
    Ta mong được tái ngộ thần nhân.

Quỷ thần:

  1. Ví thử ngài làm mất tín tâm,
    Thích nhiều tà kiến, hóa xan tham,
    Và trong trạng thái tà tâm ấy
    Ngài được gặp tôi để vấn an,
    Tôi sẽ chẳng cùng ngài nói chuyện,
    Dẫu tôi thấy mặt, hỡi quân vương!
  2. Còn nếu ngài tôn trọng Pháp chân,
    Hân hoan bố thí, tự điều thân,
    Là nguồn cung cấp cho tu sĩ,
    Nếu có duyên may gặp quỷ nhân,
    Và nếu tôi đây nhìn thấy mặt,
    Thì tôi sẽ đáp lễ ân cần.
  3.  Mau thả người ra khỏi cọc này,
    Vì ta thân thiết chính nhờ đây,
    Tôi đang nghĩ đến người đau khổ,
    Nay đã kết giao tại chốn này.
  4.  Và nếu người này được thoát thân,
    Sẽ làm thiện nghiệp rất tinh cần,
    Ngày sau thoát ngục sâu tăm tối,
    Thiện nghiệp đều mang lại phước phần.
  5.  Chúa công tham kiến Kap-pi-ta,
    Ðúng lúc cúng dường bậc xuất gia,
    Ðến trước mặt ngài, ngồi thỉnh ý,
    Và ngài sẽ nói vấn đề ra.
  6.  Gặp Tỷ-kheo kia, thỉnh ý ngài,
    Tạo nhiều công đức, trí cao vời,
    Tùy theo tri kiến, ngài phân giải
    Các pháp chưa nghe giữa mọi người,
    Ngài sẽ thuyết về tất cả pháp
    Ðưa đường đến cảnh giới vui tươi.
  7.  Khi vua đã nói chuyện tư riêng
    Cùng vị phi nhân, kết bạn hiền,
    Vua đến Lic-cha-vi bộ tộc,
    Nói cùng đại hội họp theo phiên:
  8. ‘Các người xin hãy lắng nghe lời,
    Ta sẽ tìm đường lối tốt thôi.
    Kẻ ác bị treo vào cọc ấy
    Bị trừng phạt nặng, khổ tơi bời.
  9.  Hai mươi đêm ấy khoảng thời gian
    Nó đã bị ràng buộc tấm thân,
    Nó chẳng biết đâu là sống chết,
    Ta xin đại hội thả tù nhân!’.

Ðại hội:

  1. ‘Mau thả luôn hai kẻ ấy ngay,
    Nào ai từ chối việc như vầy?
    Xin làm những việc ngài thông hiểu,
    Ðại hội tuân theo ý chỉ này’.
  2. Nơi kia, vua vội vã ra đi,
    Phóng thích người trên cọc tức thì,
    Rồi bảo: ‘Bạn này, đừng sợ hãi’,
    Và giao cho các vị lương y.
  3.  Rồi vua yết kiến Kap-pi-ta,
    Ðúng lúc cúng dường bậc xuất gia,
    Ðến trước mặt ngài, ngồi thỉnh ý
    Và tìm các lý lẽ nêu ra.

Quân vương:

  1. Kẻ ác bị treo ở cọc kia
    Chịu nhiều trừng phạt, khổ ê chề,
    Hai mươi đêm tấm thân ràng buộc,
    Nó chẳng sống còn hoặc chết đi.
  2. Bây giờ tôi đã đến buông tha
    Cứu nó theo lời quỷ Dạ-xoa,
    Xin hỏi, phải chăng còn có cách,
    Làm cho nó thoát ngục Diêm-la?
  3.  Tôn giả, bảo tôi biết cách gì,
    Chúng tôi tin tưởng lắng tai nghe,
    Phải chăng không thể tiêu trừ nghiệp,
    Cho dẫu ta không hiểu chuyện kia?

Ẩn sĩ:

  1. Nếu ngày đêm nỗ lực tinh cần
    Nó thực hiện nhiều thiện nghiệp nhân,
    Nó sẽ thoát ra từ ngục tối,
    Thiện nghiệp phải đem lại phước phần
    .

Quân vương:

  1. Nay tôi hiểu rõ chuyện này rồi,
    Tôn giả, giờ đây thương xót tôi,
    Bậc trí dạy cho tôi Giáo pháp
    Ðể tôi khỏi đọa ngục Diêm đài.

Ẩn sĩ:

  1. Ngay tự hôm nay với tín tâm
    Ngài qui y Phật, Pháp,Tăng nhân;
    Ðồng thời, thân thực hành năm giới
    Trọn vẹn và không có lỗi lầm.

78-79. Từ nay ngài bỏ giết muôn loài,
Không lấy vật chi chẳng tặng ngài,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Hãy bằng lòng với vợ ngài thôi.
Trang nghiêm lãnh tám công thù thắng
Ðưa đến nhiều thành quả đẹp tươi.

80. Với tâm thanh thản, hãy đem dâng
Các bậc chánh chân những vật cần,
Y phục, đồ ăn bình khất thực,
Nơi an trú với chỗ ngồi nằm,
Thức ăn đủ loại mềm và cứng,
Thức uống và nơi chốn nghỉ chân.

81. Thiết đãi Tỷ-kheo thức uống ăn,
Những người có giới hạnh siêu quần,
Ða văn và thoát ly tham dục,
Công đức vẫn luôn phát triển dần.

82. Thực hành Chánh pháp thật tinh chuyên
Với nhiệt tình luôn ngày lẫn đêm,
Ngài tự cứu mình từ địa ngục,
Thiện hành mang phước báo nhân thiên.

Quân vương:

  1. Ngay tự hôm nay với tín tâm
    Tôi quy y Phật, Pháp, Tăng nhân;
    Ðồng thời, thân thực hành năm giới
    Trọn vẹn và không có lỗi lầm.
  2. -85. Từ nay tôi bỏ giết muôn loài,
    Không lấy vật gì chẳng tặng tôi,
    Không uống rượu nồng, không nói dối,
    Biết bằng lòng với vợ mình thôi.
    Trang nghiêm lãnh tám công thù thắng
    Ðưa đến nhiều thành quả đẹp tươi.86. Với các vị cao đạo, Thánh Tăng,
    Thoát ly tham dục, lại đa văn,
    Dâng y, thực phẩm trong bình bát,
    Sàng tọa và nơi chốn nghỉ chân,
    Ðủ loại thức ăn mềm hoặc cứng,
    Cùng nhiều thức uống, chỗ ngồi nằm.
    Tìm trong Phật pháp niềm an lạc,
    Tôi quyết không dao động bản thân.

    87. Am-ba-sa, vị Líc-cha-vi,
    Kẻ tại gia thành Tỳ-xá-ly,
    Ðã trở nên người như vậy đó,
    Ðầy tâm thành tín, tính nhu mì,
    Nhiệt tình thực hiện nhiều công hạnh,
    Với chúng Tỷ-kheo, quyết hộ trì.

    88. Khi người trên cọc đã bình an,
    Tự nguyện, người từ giã thế gian,
    Ðến với Kap-pi-ta ẩn sĩ,
    Rồi hai người đắc quả Sa-môn.

    89. Ðây chính cách hầu cận Thánh Tăng,
    Quả nhiều cho các thiện hiền nhân,
    Người trên cọc đạt phần ưu thắng,
    Trong lúc Am-ba quả nhỏ hơn.

Sau đó Tôn giả Mahàkappitaka đi đến Sàvatthi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và trình lên Ngài vấn đề đã được vị quỷ thần kể cho nhà vua nghe. Bậc Ðạo Sư lấy đó làm đề tài thuyết pháp cho hội chúng đang hiện diện.

 

  1. (37) Chuyện Serìssaka

(Chuyện này giống như Chuyện 10, Phẩm VII ở tập Chuyện Thiên Cung).

 

  1. (38) Chuyện Quỷ Thần Nandaka (Nandakapeta)

Khoảng hai trăm năm sau khi bậc Ðạo Sư diệt độ, có vua Pingala ngự trị Surattha(Vương quốc an lạc). Vị tướng cầm đầu quân đội nhà vua là Nandaka đầy tà kiến.

Chư vị kết tập Kinh điển kể lại chuyện những người này:

  1. Tương truyền lãnh chúa Pin-ga-la
    Ngự trị thần dân Su-rat-tha,
    Khi đã đi chầu triều Khổng tước,
    Trên đường vua trở lại quê nhà.
  2. Trong cơn nóng bức giữa ban ngày,
    Vua đến một nơi có vũng lầy,
    Nhìn thấy một con đường khả ái,
    Là nơi trú ngụ quỷ ma đầy.
  3.  Vua ấy bảo ngay vị quản xa:
    ‘Con đường này khả ái cho ta,
    An toàn, yên tĩnh, đầy may mắn,
    Theo lối này đi, hỡi quản xa’.
  4. Vua xứ Su-ra tự chốn đây
    Tiến lên cùng với đội quân ngài,
    Bốn đoàn hộ tống đều đi trước,
    Hướng dẫn thần dân xứ sở này.
  5.  Với dáng lo âu, một lão gia
    Nói như vầy với chúa Su-ra:
    ‘Chúng ta đi lạc đường rồi đó,
    Thật đáng hãi kinh, rợn tóc da.
  6. Mặt tiền ta thấy một con đường,
    Song phía sau không thấy hướng phương,
    Tất cả chúng ta đang lạc bước
    Ðến gần quân của Diệm-ma vương.
  7.  Có một mùi ma quỷ bốc ra,
    Tiếng ồn khủng khiếp được nghe qua’.
    Su-ra lãnh chúa liền kinh hoảng
    Vội nói như vầy với quản xa:
  8.  ‘Nay chúng ta đang lạc bước đường,
    Thật là lạnh gáy, đáng kinh hoàng,
    Mặt tiền thấy một con đường nọ,
    Song phía sau không thấy có hướng phương.
  9.  Nay chúng ta đang lạc bước đường
    Ðến gần quân của Diệm-ma vương,
    Một mùi ma quỷ đang xông khắp,
    Khủng khiếp tai nghe một tiếng ồn!’
  10.  Nhà vua đang ngự ở lưng voi
    Ngơ ngác nhìn quanh bốn hướng trời,
    Chợt thấy một cây đa rợp bóng,
    Sum suê cành lá thật xanh tươi.
  11.  Cây có màu xanh xám tựa mây,
    Ðỉnh cây có sắc của sương dày,
    Nhà vua hỏi vị quan điều ngự:
    ‘Ta thấy vật chi lớn thế này,
    Như đám mây xanh màu xám ngắt,
    Ðỉnh cây có sắc tựa sương bay?’.

Quan điều ngự:

  1. Chúa công, đó chính một cây đa,
    Cành lá sum suê tỏa bóng ra,
    Cây có màu mây xanh xám ngắt,
    Ðỉnh cây có sắc tựa sương sa.
  2. Su-ra chúa tể lại lên đường,
    Về hướng cây cao lớn dị thường,
    Sắc tựa đám mây xanh xám ngắt,
    Ðỉnh cây lại có một màu sương.
  3.  Nhà vua bước xuống tự lưng voi,
    Ði đến gần cây nọ một hồi,
    Cùng với quần thần và cận vệ,
    Ở ngay gốc rễ, chúa công ngồi.
  4.  Vua thấy bánh và hủ nước trong,
    Một ngươi có dáng điệu Thiên thần,
    Ðiểm tô đủ loại đồ trang sức,
    Ði đến ngỏ lời với chúa công:
  5. ‘Chúa công! Hân hạnh được chào mừng,
    Chư vị đến đây thế cũng gần,
    Chúa thượng, xin mời ngài uống nước
    Và dùng bánh, hỡi vị anh hùng!’
  6.  -18. Nhà vua cùng với đám quần thần, Cận vệ bên mình uống nước trong,
    Ăn bánh rồi vua cất tiếng hỏi:
    ‘Xin cho biết, có phải Thiên nhân,
    Thác-bà, hạy chính là Thiên chủ
    Pu-rín-dà-da ấy phải chăng?
    Không biết ngài nên ta muốn hỏi,
    Làm sao ta biết được tôn ông?

Quỷ thần:

  1. Tôi đây không phải một Thiên nhân,
    Chẳng phải Sak-ka, chẳng Nhạc thần,
    Tôi chính quỷ nhân, tâu chúa thượng,
    Từ Su-ra đến ở ma cung.

Quân vương:

  1. Ngày trước ngài công đức thế nào,
    Ở Su-ra xử thế ra sao,
    Ngài theo Phạm hạnh nào từ trước,
    Nay hưởng cảnh vinh hiển biết bao?

Quỷ thần:

  1. Xin hãy lắng nghe, hỡi chúa công,
    Là người khai quốc, vị anh hùng,
    Quốc sư tế lễ nghe tôi nói,
    Cùng các quân nhân, các đại thần.
  2.  Chúa công, tôi đến tự Su-ra,
    Thuở trước tính tình thật xấu xa,
    Tà kiến mang đầy cùng ác ý,
    Xan tham, hay mạ ly người ta.
  3. Tôi ngăn lắm kẻ thật nhân từ
    Hành thiện sự nhiều để lợi tha,
    Tôi cản bước chân bao kẻ khác
    Sẵn lòng lấy của cải đem cho.
  4.  

     Bảo: ‘Bố thí không tạo phước phần
    Ðâu là kết quả tự điều thân?
    Không hề có đạo sư nào cả,
    Ai sẽ phạt người không hiến dâng?

  5.  

    Giữa các hữu tình đồng đẳng nhau,
    Tại sao kính trọng vị niên cao,
    Có đâu nỗ lực và tinh tấn,
    Nói đến tinh cần bởi cớ sao?

  6.  

    Bố thí không mang quả phước phần,
    Cũng không trừ diệt một cừu nhân;
    Mỗi người được những gì cần có,
    Và nhận những gì phải đến thân.

  7.  

     Chẳng có mẹ cha, huynh đệ đâu,
    Không đời này cũng chẳng đời sau,
    Cũng không bố thí, không dâng cúng,
    Không có gì bền vững được lâu.

  8.  

     Hễ ai đánh đập một người nào,
    Hoặc có đem người khác chặt đầu,
    Cũng chẳng làm gì gây tổn hại
    Giữa muôn loài vật sống bên nhau.

  9.  

    Mỗi mạng sống đều bất khả phân,
    Dầu hình bát giác hoặc cầu lăn,
    Nó cao đến cả năm trăm dặm,
    Ai có thể tiêu diệt nó chăng?

  10.  

    Cũng giống cuộn dây được ném ra
    Từ người thả nó, chạy lăn xa,
    Như vầy là mạng người đang sống
    Thoát được những ai thả nó mà.

  11.  

    Như người từ giã một ngôi làng
    Vào một làng kia, phải thấy đường,
    Cũng vậy, một con người tận số
    Bước vào thân xác mới tha phương.

  12.  

    Như người từ giã một ngôi nhà,
    Và bước vào nơi trú ngụ kia,
    Cũng vậy, là con người tận số
    Ði vào một cảnh giới phương xa.

  13.  

    Sau khi qua hết nẻo luân hồi
    Tám triệu bốn trăm ngàn kiếp trôi,
    Tất cả kẻ ngu cùng bậc trí
    Thảy đều chấm dứt khổ đau rồi.
    Lạc, ưu đo được bằng thùng, giỏ
    Người chiến thắng thông hiểu sự đời,
    Kẻ khác đều là phường xuẩn ngốc’,
    Tôi mang tà kiến cả đời tôi.

  14.  

     Xưa kia tôi lầm lạc, lắm mê si,
    Tà kiến, tôi không đạo hạnh gì,
    Tôi lại xan tham, hay phỉ báng,
    Không đầy sáu tháng, sẽ ra đi.

  15.  

    36. Ðọa vào ngục hãi kinh sao,
    Có bốn góc, và bốn cửa vào,
    Ngục được chia phần theo kích thước,
    Xung quanh bao bọc với tường rào,
    Làm bằng sắt nóng và trên mái
    Cũng có sắt che tận đỉnh cao.

    37. Nền sắt ánh lên lửa nóng bừng,
    Sáng ngời mọi phía trăm do-tuần,
    Trăm ngàn năm đã trôi qua mất,
    Lập tức một âm thanh chuyển rung.
    Những kẻ tà tâm và ác tính
    Ðã từng phỉ báng các chân nhân
    Bị hành địa ngục vô lượng kiếp,
    Chốn ấy sẽ đau khổ chẳng ngừng.

    38. Cho nên tôi thống thiết than van
    Kết quả ác hành kia phải mang,
    Xin lắng nghe tôi, tâu chúa thượng,
    Anh hùng khai quốc, chúc an khang!
    Nguyên tôi có một cô con gái,
    Tên gọi Ut-ta-ra thật ngoan.

    39. Nàng hành thiện sự thấy an vui
    Giữ Bát quan trai giới đúng thời,
    Nàng sống điều thân, ham bố thí,
    Nhân từ, khôn khéo lúc trao lời.

    40. Nhất mực tuân theo giáo pháp nhà,
    Nàng làm dâu quý tộc danh gia,
    Nàng là đệ tử Ngài Viên Giác,
    Bậc trí vinh quang, tộc Thích-ca.

    41. Một Tỷ-kheo cao đạo khác thường,
    Ra đi khất thực, bước vào làng,
    Mắt người cúi xuống, thân điều phục,
    Chánh niệm và phòng hộ các căn
    Trong lúc đi từng nhà khất thực,
    Dần dần người đến tận nhà nàng.

    42. Ut-ta-ra lúc ấy nhìn người,
    Chúc chúa công luôn hưởng phước trời!
    Nàng đã dâng người bình nước uống
    Cùng nhiều bánh bột, lại thưa lời:

    43. ‘Tôn giả, cha con đã mất rồi,
    Mong sao lễ mọn giúp cho người’.
    Không lâu sự việc nàng vừa thấy,
    Kết quả tức thì đến với tôi.

    44. Tôi hưởng thức ăn, lạc thú tràn,
    Khác nào Thiên đế Tỳ-sa-môn,
    Hỡi anh hùng mở mang bờ cõi,
    Xin lắng nghe đây, tấu chúa công.

    45. Phật-đà được gọi đấng siêu nhân
    Giữa các Thiên, nhân ở cõi trần,
    Hãy đến quy y vào đức Phật,
    Cùng đàn thê tử, hỡi anh hùng.

    46. Nhiều người đạt bất tử, vô sanh,
    Do chính Ðạo kia có tám ngành,
    Cùng vợ con đi tìm Giáo pháp
    Ðể quy y, hỡi bậc hùng anh!

    47. Cùng bước đi trên bốn Ðạo này,
    Trú trong bốn Quả quý cao thay,
    Chư Tăng trực hạnh và tu luyện
    Giới đức trang nghiêm, trí tuệ đầy.

    48. Hỡi bậc anh hùng, xin hãy đi
    Cùng đàn thê tử thọ Tam quy,
    Mau mau bỏ giết loài sanh vật,
    Không lấy trộm cho dẫu vật gì,
    Không uống rượu nồng, không nói dối,
    Hãy bằng lòng với vị vương phi.

Quân vương:

  1. Ngài muốn ta an lạc, Dạ-xoa,
    Ngài mong lợi ích với hoàng gia,
    Phần ta thực hiện lời ngài dạy,
    Ngài chính là sư phụ của ta
  2. .-51. Ta đến quy y đấng Phật-đà,
    Tối cao Giáo pháp, với Tăng-già,
    Ta mau bỏ hết điều sanh sát,
    Không lấy vật gì chẳng tặng ta,
    Không uống rượu nồng, không nói dối,
    Biết bằng lòng với vợ trong nhà.52. Ta bỏ khoe khoang với xảo ngôn,
    Nhanh như thể đổ xuống dòng sông,
    Ta nôn ra hết bao tà kiến,
    Thích thú tuân lời dạy Thế Tôn.

    53. Nói vầy xong, chúa tể Su-ra
    Từ bỏ ngay quan điểm ác tà,
    Ðảnh lễ Thế Tôn, rồi chúa thượng
    Hướng về đông ngự giá vương xa.

Nhờ thần lực của vị quỷ nhân, nhà vua về kinh thành kịp ngày hôm ấy. Về sau, đúng thời, vua tường thuật chuyện ấy với chư Tỷ-kheo và chư vị này lại trình vấn đề với chư Trưởng lão biên soạn Giáo pháp để đưa câu chuyện vào Hội đồng kết tập Kinh tạng thứ ba. (Bổ sung từ Tập Sớ).

 

  1. (39) Chuyện Ngạ Quỷ Revatì

(Chuyện này giống chuyện số 2 Phẩm V của Chuyện Thiên Cung).

Kinh Tiểu Bộ – Tập 2 – 2.2 Chuyện Ngạ Quỷ – Phẩm IV.a – Ðại Phẩm

Bài viết liên quan

Mục lục KINH TIỂU BỘ tiếng Việt:

  1. Tổng quan Tiểu Bộ Kinh – Khuddaka Nikàya – Ðại Tạng Kinh
Kinh Pháp Cú
Kinh Phật Thuyết Như Vậy
Kinh Phật Tự Thuyết
Kinh Tập
  1. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga – 01 và 02. Kinh Rắn
  2. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .03. Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng
  3. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .04. Kinh Bhàradvàja, Người Cày Ruộng
  4. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .05. Kinh Cunda
  5. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .06. Kinh Bại Vong
  6. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .07. Kinh Kẻ Bần Tiện (Vasalasuttam)
  7. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .08. Kinh Từ Bi (Metta Sutta)
  8. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .09. Kinh Hemavata
  9. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .10. Kinh Alavaka
  10. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .11. Kinh Thắng Trận
  11. TB.T01.KT.C1. Phẩm Rắn Uragavagga .12. Kinh ẩn sĩ
  12. TB.T01.KT.C2.01. Kinh Châu Báu .Ratana Sutta)
  13. TB.T01.KT.C2.02. Kinh Hôi Thối .Amagandha)
  14. TB.T01.KT.C2.03. Kinh Xấu Hổ
  15. TB.T01.KT.C2.04. Kinh Ðiềm Lành Lớn .Kinh Ðại Hạnh Phúc (Mahamangala Sutta)
  16. TB.T01.KT.C2.05. Kinh Sùciloma
  17. TB.T01.KT.C2.06. Kinh Hành Chánh Pháp
  18. TB.T01.KT.C2.07. Kinh Pháp Bà-la-môn
  19. TB.T01.KT.C2.08. Kinh Chiếc Thuyền
  20. TB.T01.KT.C2.09. Thế Nào là Giới
  21. TB.T01.KT.C2.10. Kinh Ðứng Dậy
  22. TB.T01.KT.C2.11. Kinh Ràhula
  23. TB.T01.KT.C2.12. Kinh Vangìsa
  24. TB.T01.KT.C2.13. Kinh Chánh xuất gia
  25. TB.T01.KT.C2.14. Kinh Dhammika
  26. TB.T01.KT.C3.01. Kinh Xuất Gia
  27. TB.T01.KT.C3.02. Kinh Tinh Cần
  28. TB.T01.KT.C3.03. Kinh Khéo Thuyết
  29. TB.T01.KT.C3.04. Kinh Sundarika Bhàradvàja
  30. TB.T01.KT.C3.05. Kinh Màgha
  31. TB.T01.KT.C3.06-07. Kinh Sabhiya
  32. TB.T01.KT.C3.08-09. Kinh Mũi Tên
  33. TB.T01.KT.C3.10. Kinh Kokàliya
  34. TB.T01.KT.C3.11. Kinh Nàlaka
  35. TB.T01.KT.C3.12. Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán
  1. KTB.T01.KT.C4.01. Kinh về Dục
  2. KTB.T01.KT.C4.02. Kinh Hang Ðộng tám kệ
  3. KTB.T01.KT.C4.03. Kinh Sân Hận tám kệ
  4. KTB.T01.KT.C4.04. Kinh Thanh Tịnh tám kệ
  5. KTB.T01.KT.C4.05. Kinh Tối Thắng tám kệ
  6. KTB.T01.KT.C4.06. Kinh Già
  7. KTB.T01.KT.C4.07. Kinh Tissametteyya
  8. KTB.T01.KT.C4.08. Kinh Pasùra
  9. KTB.T01.KT.C4.09. Kinh Màgandiya
  10. KTB.T01.KT.C4.10. Kinh Trước khi bị hủy hoại
  11. KTB.T01.KT.C4.11. Kinh Tranh luận
  12. KTB.T01.KT.C4.12. Những vấn đề nhỏ bé
  13. KTB.T01.KT.C4.13. Những vấn đề to lớn
  14. KTB.T01.KT.C4.14. Kinh Tuvataka (Con đường mau chóng)
  15. KTB.T01.KT.C4.15. Kinh Chấp trượng
  16. KTB.T01.KT.C4.16. Kinh Sàriputta (Xá-lợi-phất)
  17. KTB.T01.KT.C5.01. Bài kệ mở đầu
  18. KTB.T01.KT.C5.02. Câu hỏi của thanh niên A-ji-ta
  19. KTB.T01.KT.C5.03. Các câu hỏi của thanh niên Tissametmeyya
  20. KTB.T01.KT.C5.04. Câu hỏi của thanh niên Punnaka
  21. KTB.T01.KT.C5.05. Câu hỏi của thanh niên Mettagu
  22. KTB.T01.KT.C5.06. Câu hỏi của thanh niên Dhotaka
  23. KTB.T01.KT.C5.07. Câu hỏi của thanh niên Upasiva
  24. KTB.T01.KT.C5.08. Các câu hỏi của thanh niên Nanda
  25. KTB.T01.KT.C5.09. Các câu hỏi của thanh niên Hemaka
  26. KTB.T01.KT.C5.10. Câu hỏi của thanh niên Todeyya
  27. KTB.T01.KT.C5.11. Câu hỏi của thanh niên Kappa
  28. KTB.T01.KT.C5.12. Câu hỏi của thanh niên Jatukanni
  29. KTB.T01.KT.C5.13. Câu hỏi của thanh niên Bhadràvudha
  30. KTB.T01.KT.C5.14. Câu hỏi của thanh niên Udaya
  31. KTB.T01.KT.C5.15. Câu hỏi của thanh niên Posàla
  32. KTB.T01.KT.C5.16. Câu hỏi của thanh niên Mogharàja
  33. KTB.T01.KT.C5.17. Câu hỏi của thanh niên Pingiya
  34. KTB.T01.KT.C5.18. Kết luận
Trưởng Lão Tăng Kệ
Trưởng Lão Ni Kệ
Chuyện Tiền Thân Đức Phật
  1. ​​​​​​​KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.01. PHẨM APANNAKA
  2. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.02. PHẨM GIỚI
  3. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.03. PHẨM KURUNGA
  4. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.04. PHẨM KULAVAKA
  5. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.05. PHẨM LỢI ÁI
  6. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.06. PHẨM ÀSIMSA
  7. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.07. PHẨM NỮ NHÂN
  8. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.08. PHẨM VARANA
  9. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.09. PHẨM APAYIMHA
  10. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.10. PHẨM LITTA
  11. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.11. PHẨM PAROSATA
  12. KTB.T04 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (01) – C01.12. PHẨM HAMSA
  13. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 01. PHẨM KUSANÀLI
  14. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 02. PHẨM ASAMPADÀNA
  15. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C01. Một bài kệ – 03. PHẨM KAKANTAKA
  16. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 04. PHẨM DALHA
  17. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 05. PHẨM SANTAHAVA
  18. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 06. PHẨM THIỆN PHÁP
  19. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 07. PHẨM ASADISA
  20. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 08. PHẨM RUHAKA
  21. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 09. PHẨM NATAMDAIHA
  22. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 10. PHẨM BIRANATTHAMBHAKA
  23. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 11. PHẨM KHÀSÀVA
  24. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 12. PHẨM UPÀHANA
  25. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C02. Hai bài kệ – 13. PHẨM SIGÀLA
  26. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C03.14. PHẨM SANKAPPA
  27. KTB.T05 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (02) – C03.15. PHẨM KOSYA
  28. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 264-273)
  29. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 274-280)
  30. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 281-285)
  31. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C03. Phẩm Ba Bài Kệ (tt 286-300)
  32. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 301-309)
  33. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 310-317)
  34. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 318-325)
  35. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 326-337)
  36. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C04. Phẩm Bốn Bài Kệ (tt 338-350)
  37. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C05. Phẩm Năm Bài Kệ (tt 351-358)
  38. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C05. Phẩm Năm Bài Kệ (tt 359-371)
  39. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 372-378)
  40. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 379-386)
  41. KTB.T06 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (03) – C06. Phẩm Sáu Bài Kệ (tt 387-395)
  42. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C07. Phẩm bảy bài kệ
  43. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C07. Phẩm bảy bài kệ (tt 407 – 416)
  44. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C08. Phẩm Tám Bài Kệ
  45. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C08. Phẩm Tám Bài Kệ (tt 422 – 426)
  46. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C09. Phẩm Chín Bài Kệ
  47. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C09. Phẩm Chín Bài Kệ (tt 433 – 438)
  48. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C10. Phẩm Mười Bài Kệ
  49. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C10. Phẩm Mười Bài Kệ (tt 447- 454)
  50. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C11. Phẩm Mười Một Bài Kệ
  51. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C11. Phẩm Mười Một Bài Kệ (tt 460-463)
  52. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C12. Phẩm Mười Hai Bài Kệ
  53. KTB.T07 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (04) – C12. Phẩm Mười Hai Bài Kệ (tt 468 – 473)
  54. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C13. Phẩm Mười ba bài kệ
  55. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C13. Phẩm Mười ba bài kệ (tiếp theo)
  56. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C14. Tạp phẩm
  57. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C14. Tạp phẩm (tiếp theo)
  58. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C15. Phẩm Hai Mươi Bài Kệ
  59. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C15. Phẩm Hai Mươi Bài Kệ (tiếp theo)
  60. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C16. Phẩm Ba mươi bài kệ
  61. KTB.T08 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (05) – C16. Phẩm Ba mươi bài kệ (tiếp theo)
  62. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C17. Phẩm Bốn Mươi Bài Kệ
  63. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C18. Phẩm Năm Mươi Bài Kệ
  64. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C19. Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ
  65. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C20. Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
  66. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C21. Phẩm Tám Mươi Bài Kệ
  67. KTB.T09 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (06) – C22. Đại Phẩm
  68. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (540)
  69. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (541)
  70. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (542)
  71. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (543)
  72. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (544)
  73. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (545)
  74. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (546)
  75. KTB.T10 – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (07) – C22. Đại Phẩm (547)

Link xem nhanh các bộ kinh chính yếu trong Tam Tạng Thánh Ðiển:

(Xem chi tiết sơ đồ)

A. TẠNG LUẬT (VINAYAPIṬAKA)

  1. Phân tích giới
  2. Đại phẩm
  3. Tiểu phẩm
  4. Tập yếu

B. TẠNG KINH (SUTTANTAPIṬAKA)

  1. Trường bộ
  2. Trung bộ
  3. Tương ưng bộ
  4. Tăng chi bộ
  5. Tiểu bộ

C. TẠNG VÔ TỶ PHÁP (ABHIDHAMMAPIṬAKA)

  1. Pháp tụ
  2. Phân tích
  3. Chất ngữ
  4. Nhân chế định
  5. Biện giải
  6. Song đối
  7. Vị trí
Print
Email
Facebook
Twitter
LinkedIn
Skype
Telegram
Pocket
WhatsApp

Bạn đang xem bài viết: Kinh Tiểu Bộ – Tập 2 – 2.2 Chuyện Ngạ Quỷ – Phẩm IV.a – Ðại Phẩm